top of page


    LỜI KHAI THỊ CỦA

   TỔ LIÊN TÔNG THỨ CHÍN _ ĐẠI SƯ NGẪU ÍCH

*********

            DẠY QUÁCH THIỆN HỮU

Biển cả Phật pháp, lấy Tín để vào, lấy Trí để chứng. Nếu có tín tâm nhưng thiếu trí tuệ, chỉ e khó tránh phân vân đôi ngả. Đức Phật dạy: “Ðời mạt pháp đấu tranh kiên cố, ức ức người học đạo, hiếm có một người chứng quả. Chỉ nương vào niệm Phật cầu sinh Tịnh Ðộ, mới có thể vượt ngang ra khỏi luân hồi”. Nếu tin tưởng sâu xa niệm Phật, lễ bái là cái nhân chân chánh để thành Phật, thành Tổ thì đích xác là chẳng bị dòng đời xoay chuyển, lại còn là trí tuệ đại quang minh, vượt thẳng lên Tịnh Ðộ, vĩnh viễn chẳng sợ bị lạc đường nữa.

                   DẠY THẠCH HỮU

Niệm Phật cầu sinh Tịnh Ðộ chính là một pháp môn gồm thâu trọn vẹn trăm ngàn pháp môn, chứ chẳng phải là đề cao một pháp môn, vứt bỏ trăm pháp môn khác! Nhưng phải thâm nhập một môn, lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh, còn hết thảy Giới, Ðịnh, Huệ v.v... làm Trợ Hạnh. Chánh - Trợ cùng hành như thuyền thuận gió, lại thêm có giây lèo thì càng chóng đến được bờ.

Pháp Niệm Phật tuy nhiều, nhưng Trì Danh là giản tiện nhất. Pháp Trì Danh tuy nhiều, nhưng phép Ký Số là ổn thỏa, thích đáng nhất. Kẻ tu hành thực sự nào có mong làm gì khác với hạng ngu phu, ngu phụ đâu!

 

        DẠY LƯƠNG NHIÊN

Nhạt một phần tình đời, tự nhiên đắc lực thêm một phần Phật pháp. Xem nhẹ chuyện kiếm sống trong cõi Sa Bà một phần, phương tiện sinh về Tây Phương ổn đáng thêm một phần. Ðiều này mình chỉ tự hỏi lòng, đừng hỏi bạn tri thức. Tri thức cũng chỉ khuyên nhạt bớt mùi đời, coi nhẹ chuyện làm ăn, chuyên tu đạo Xuất Yếu mà thôi!

 

        DẠY PHÁP NGUYÊN

Công phu Niệm Phật chỉ quý ở tín tâm chân thật. Thứ nhất phải tin rằng: Ta là Phật chưa thành, Đức Di Ðà là Phật đã thành, thể vốn không hai. Kế đó, tin Sa Bà thật sự là khổ, An Dưỡng đích xác đáng quay về, ưa - chán rành rành. Tiếp đó, tin mỗi một hành động hiện tại đều có thể hồi hướng về Tây Phương. Nếu chẳng hồi hướng, dù là thượng phẩm thiện vẫn chẳng thể vãng sinh. Nếu biết hồi hướng, dẫu trót lầm gây hạnh ác, nhưng nhanh chóng dứt tâm tương tục, khởi lòng trân trọng sám hối; nhờ sức sám hối cũng được vãng sinh. Huống là trì giới, tu phúc, bao nhiêu nghiệp thù thắng, há chẳng đủ để trang nghiêm Tịnh Ðộ ư? Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay! Chỉ nên tăng thêm lòng tin chân thành, chẳng cần phải thay đổi hết thảy các hạnh nghiệp vậy.

 

     DẠY LUẬN VỀ TRÌ DANH NIỆM PHẬT

       CỬU PHẨM VÃNG SINH

Nếu muốn mau thoát khỏi nỗi khổ luân hồi thì không gì bằng trì danh niệm Phật, cầu sinh thế giới Cực Lạc. Nếu muốn quyết định được sinh về thế giới Cực Lạc thì lại không gì bằng lấy Tín để dẫn đường, lấy Nguyện để thúc đẩy. Tin xác quyết, nguyện khẩn thiết, dù tán tâm niệm Phật cũng chắc chắn được vãng sinh. Lòng tin chẳng chân thật, nguyện chẳng dũng mãnh, dù nhất tâm bất loạn cũng chẳng được vãng sinh.

Thế nào là Tín? Một là tin vào nguyện lực của Phật A Di Ðà. Hai là tin vào lời dạy của đức Thích Ca Văn Phật. Ba là tin vào lời khen ngợi của sáu phương chư Phật. Phàm là bậc chánh nhân quân tử trong thế gian còn chẳng nói dối, huống hồ là Đức Di Ðà, Đức Thích Ca, sáu phương chư Phật há lại vọng ngữ sao? Chẳng tin điều này thì thật chẳng còn cách nào cứu được nữa. Vì thế, trước hết phải sinh lòng tin sâu xa.

Thế nào là Nguyện? Trong hết thảy thời, chán ghét nỗi khổ sinh tử cõi Sa Bà, ưa thích, hâm mộ niềm vui Bồ Ðề cõi Cực Lạc. Làm bất cứ điều gì thiện hay ác, nếu thiện thì hồi hướng cầu vãng sinh, ác thì sám nguyện cầu vãng sinh, không còn chí gì khác. Ðấy gọi là Nguyện.

Thế nào là Hạnh? Tín - Nguyện đã đầy đủ thì Niệm Phật chính là chánh hạnh; cải ác tu thiện đều là trợ hạnh.

Tùy theo công sức sâu cạn mà chia thành chín phẩm, bốn cõi Tịnh Ðộ, mảy may chẳng lạm. Chỉ cần tự kiểm điểm lấy mình, chẳng cần phải hỏi người khác nữa. Nghĩa là:

  • Tín sâu nguyện thiết niệm Phật, nhưng lúc niệm Phật, tâm nhiều tán loạn thì là Hạ Phẩm Hạ Sinh.

  • Tín sâu, nguyện thiết niệm Phật nhưng lúc niệm Phật tán loạn giảm thiểu thì là Hạ Phẩm Trung Sinh.

  • Tín sâu, nguyện thiết niệm Phật, nhưng lúc niệm Phật lại chẳng tán loạn thì là Hạ Phẩm Thượng Sinh.

  • Niệm đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, chẳng khởi tham, sân, si thì thuộc vào ba phẩm Trung Sinh.

  • Niệm đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, tùy ý đoạn Kiến Tư Hoặc hay Trần Sa Hoặc trước và cũng hàng phục được vô minh thì thuộc vào ba phẩm Thượng Sinh.

Vì thế, tín nguyện trì danh niệm Phật sinh trong chín phẩm, đích xác chẳng lầm. Hơn nữa:

  • Tín nguyện trì danh, tiêu phục nghiệp chướng, đới nghiệp vãng sinh chính là Phàm Thánh Ðồng Cư Tịnh Ðộ.

  • Tín nguyện trì danh, đoạn sạch Kiến Tư Hoặc mà vãng sinh thì là Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ.

  • Tín nguyện trì danh, phá tan một phần vô minh mà vãng sinh chính là Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ.

  • Tín nguyện trì danh, trì đến chỗ cứu cánh, đoạn sạch vô minh mà vãng sinh thì chính là Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ.

Vì thế trì danh sinh trong tứ độ cũng là điều đích xác chẳng lầm vậy.

                                                                                                          Trích trong quyển Đại sư Ngẫu Ích Pháp ngữ

                                                            

 

                                                      

 

                                                         LỜI KHAI THỊ

                            TỔ LIÊN TÔNG THỨ MƯỜI HAI _ ĐẠI SƯ TRIỆT NGỘ

*********

DẠY CẢNH SÁCH KHUYÊN NIỆM PHẬT

Tất cả khổ cực thế gian nằm trong bốn chữ “sinh tử luân hồi”. Thân người rất khó được mà lại vô cùng dễ mất. Tam đồ dễ vào mà rất khó ra. Thời gian trong địa ngục phải lấy số kiếp mà tính đếm; vạn khổ nung đốt không biết nơi đâu cầu cứu; đền tội xong lên dương thế làm súc sinh để trả nợ xưa, từ bụng heo chui ra tự nhận mình là heo, đem tính vô lượng quang vào bào thai xú uế, nương gá bụng ngựa dạ trâu. Thương tâm biết nhường nào!

Bảy đời Phật đi qua vẫn còn làm thân kiến, tám vạn kiếp sau chưa thoát nghiệp bồ câu. Bỏ đãy da này mang đãy da khác, trải ngàn vạn năm mới được thân người, bao lần chịu thân cách ấm đâu còn trí sáng, xúc thọ căn trần, sinh già bệnh chết làm sao tự chủ!

Cho nên bây giờ, phải thống niệm hiểm nguy sinh tử như cứu lửa cháy đầu. Vì mười phương chúng sinh nhất tâm niệm Phật. Bởi vì họ với ta đồng thể, bởi vì đã từng làm bà con quyến thuộc nhiều đời, bởi vì đã cùng nhau chịu khổ từ vô thỉ kiếp, nên nay niệm Phật cầu cho ta và người đồng giải thoát, đồng thành Phật đạo. Phát đại tâm như vậy, thì trên cảm thông chư Phật, dưới khế hợp tánh linh. Tội nghiệp từ lũy kiếp sẽ giải trừ, bao nhiêu thiện căn sớm thành thục. Lấy vui Cực Lạc đối chiếu với thống khổ Sa bà thì lòng muốn rời xa vội vàng như mong thoát hang cọp, như đói mong ăn, như khát mong uống, như tránh oan gia đang cầm dao rượt, như chết đuối gấp cầu cứu vớt.

Mê chân khởi vọng hay ngược vọng quy chân, đâu có pháp nào ngoài một niệm này. Theo tịnh duyên niệm liền vào pháp giới thánh, theo nhiễm duyên niệm mở ra pháp giới phàm. Mười phương chánh báo, y báo đều từ một niệm này mà ra. Trì một danh hiệu Phật là gieo một hạt giống vào chín phẩm hoa sen. Niệm một câu Phật là một bước trên đường giải thoát. Tâm tâm liên tục, niệm niệm chuyên cần, càng lâu càng thấm thía. Sao cho thành một khối nhất tâm bất loạn. Một khi liên hoa khai nở thì tam thân tứ trí, ngũ nhãn lục thông, bao nhiêu thắng duyên rực rỡ.

Niệm Phật cốt yếu để minh tâm mà tịnh tâm cũng không chi bằng niệm Phật. Như nước đục được minh châu nhất định sẽ trong. Biết rõ lý này phải vội vàng niệm Phật. Nếu có thể nhất tâm niệm Phật thì coi như việc tham học đã xong, việc cần làm là thành biện vậy.

***

 


            LỜI KHAI THỊ

          TỔ LIÊN TÔNG THỨ MƯỜI HAI _ ĐẠI SƯ TRIỆT NGỘ DẠY

TÁM ĐIỀU CẦN YẾU NGƯỜI TU TỊNH NGHIỆP CẦN BIẾT

*******

  • Một là: Thật vì sinh tử mà phát tâm Bồ Đề, đó là học Đạo chân chính.

  • Hai là: Lấy Tín Nguyện thâm sâu trì danh hiệu Phật làm chánh tông

Tịnh Độ.

  • Ba là: Lấy sự nhiếp tâm chuyên chú niệm làm phương tiện hạ thủ

công phu.

  • Bốn là: Lấy việc chiết phục các phiền não đang hiện hành làm sự tu tâm chính yếu.

  • Năm là: Lấy sự chuyên trì bốn luật nghi chính yếu làm chỗ căn bản nhập đạo.

  • Sáu là: Lấy các pháp khổ hạnh làm trợ duyên tu đạo.

  • Bảy là: Lấy sự nhất tâm bất loạn làm chỗ quay về của Tịnh Độ.

  • Tám là: Lấy sự trông thấy các linh ảnh tốt đẹp làm chỗ nghiệm chứng vãng sinh.

 

 

           TỔ LIÊN TÔNG THỨ MƯỜI HAI _ ĐẠI SƯ TRIỆT NGỘ DẠY

             ĐẠI CƯƠNG TÔNG CỦA PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ

*******

Thật vì sinh tử, phát tâm Bồ Ðề, dùng tín nguyện sâu_trì danh hiệu Phật. Mười sáu chữ ấy chính là một đại cương tông của pháp môn Niệm Phật. Nếu chẳng thể phát khởi tâm “thật sự vì sinh tử” thì hết thảy khai thị đều thành hý luận. Hết thảy sự khổ nặng nề trong thế gian không gì hơn được sinh tử. Không kết thúc được sinh tử thì sinh tử, tử sinh, sinh sinh, tử tử, ra khỏi bào thai này, vào trong bào thai khác, bỏ cái đãy da này để lấy cái đãy da khác, khổ chẳng thể kham nổi! Huống hồ, chưa ra khỏi luân hồi thì khó tránh khỏi đọa lạc; hễ một niệm sai lầm, ắt lại vào trong nẻo ác. Tam đồ dễ vào, khó ra. Thời gian trong địa ngục dài lâu, khổ sở nặng nề.

Mỗi phen nghĩ đến, ngũ tạng như nung. Vì thế, ta nay hãy nên xót đau nghĩ đến sinh tử như làm đám tang cho cha mẹ, như cứu lửa cháy đầu. Nhưng, ta có sinh tử, ta cầu xuất ly; hết thảy chúng sinh đều ở trong sinh tử, đều phải nên xuất ly. Bọn họ và ta vốn cùng một thể, đều là cha mẹ nhiều đời của ta, là chư Phật trong vị lai. Nếu chẳng nghĩ cách phổ độ họ, chỉ cầu tự lợi thì về lý đã khiếm khuyết, mà tâm cũng chưa an.

Huống hồ, đại tâm chẳng phát thì ngoài chẳng thể cảm thông chư Phật, trong chẳng thể khế hợp bổn tánh, trên chẳng thể viên thành Phật đạo, dưới chẳng thể lợi khắp quần sinh, thì ân ái từ vô thỉ làm sao giải thoát nổi, oan khiên từ vô thỉ làm sao cởi mở nổi? Tội nghiệp bao kiếp khó nỗi sám trừ, thiện căn bao kiếp khó bề thành thục. Tu hành điều gì cũng gặp nhiều chướng duyên, dù có thành được cái gì cũng biến thành lệch lạc, nhỏ nhặt. Vì thế, cần phải phát đại Bồ Ðề tâm tương xứng với tánh.

Ðại tâm đã phát, hãy nên tu đại hạnh; nhưng trong hết thảy các hạnh môn, tìm lấy một cách thực hành dễ nhất, dễ thành tựu nhất, ổn thỏa, thích đáng nhất, tối cực viên đốn, không gì bằng tín nguyện sâu xa trì danh hiệu Phật vậy.

Tín vừa nói đó nghĩa là: Lời nói phạm âm của Đức Thích Ca Như Lai quyết không dối trá, tâm đại từ bi của Đức Di Ðà Thế Tôn quyết chẳng nguyện suông. Hễ lấy niệm Phật cầu sinh làm nhân, ắt sẽ cảm quả gặp Phật vãng sinh, giống như trồng dưa được dưa, gieo đậu được đậu; tiếng vang phải ứng theo tiếng, bóng phải nương theo hình. Nhân chẳng bỏ luống, quả chẳng lỡ làng. Như vậy thì chẳng cần phải đợi hỏi Phật mới có thể tự tin. Huống hồ một niệm tâm tánh  hiện tiền của chúng ta suốt ngày tùy duyên, suốt ngày bất biến, ngang thì trọn khắp, dọc thì tột cùng, không có gì ở ngoài Thể, Tịnh Ðộ Di Ðà đều ở trong ấy.

Dùng cái tâm sẵn có Phật của mình để niệm đức Phật sẵn có trong tâm ta, thì đức Phật sẵn có trong tâm ta lại chẳng tương ứng với cái tâm sẵn có Phật của ta hay sao? Vãng Sinh Truyện đã ghi đầy dẫy những tướng lành lúc lâm chung, há nào lừa dối ta ư? Tin như thế rồi, tự mong muốn, ưa thích thiết tha. Từ sự vui trong cõi ấy, ngoái nhìn nỗi khổ trong Sa Bà thì lòng chán nhàm càng sâu, như lìa hầm xí, như ra khỏi lao ngục. Từ nỗi khổ Sa Bà, ngóng trông niềm vui trong cõi kia, vui mừng, ưa thích càng thêm thiết tha như quay về cố hương, như rảo chân đến chỗ có của báu.

Nói tóm lại là như khát nghĩ đến uống, như đói mong ăn, như bệnh khổ ước ao thuốc hay, như trẻ thơ mong nhớ mẹ, như tránh kẻ oan gia vác dao bức bách, như ngã vào nơi nước lửa mong gấp được kéo lên. Nếu quả thật có thể khẩn thiết như thế thì hết thảy cảnh duyên chẳng thể dẫn dắt, xoay chuyển được!

Sau đấy, dùng cái tâm tín nguyện ấy chấp trì danh hiệu. Trì một tiếng là thành một hạt giống cho chín phẩm sen. Niệm một câu là chánh nhân để vãng sinh. Phải sao cho tâm tâm tiếp nối, niệm niệm chẳng sai, chỉ một mực chuyên cần, chẳng tạp, chẳng gián đoạn, càng lâu càng vững, càng trì càng thiết tha, lâu ngày tự thành một khối, nhập vào nhất tâm bất loạn. Nếu thật sự như thế mà chẳng được vãng sinh thì hóa ra Đức Thích Ca Như Lai nói dối, Đức Di Ðà Thế Tôn chỉ nguyện suông; có lẽ nào như thế ư?

Trích yếu trong Niệm Phật Pháp Yếu, quyển I Niệm Phật Kim Chỉ Nam, Bài số 14

 

         TỔ LAI QUẢ DẠY

           ĐẠI CHÍ

*******

Người niệm Phật _ trước tiên phải lập:

  • Đại chí xung thiên

  • Đại chí xuất cách

  • Đại chí xuất thế

  • Đại chí thành Phật

Người không có đại chí _ thì làm việc gì cũng không thể làm được, việc gì cũng không thể thành tựu. Nhưng có chí hướng thượng _ và chí hướng hạ, người tu hành rất cần phải xét kỷ. Bằng không sẽ bị người ta chê rằng: “Ông ăn cơm mà không có một chút chí hướng, còn mặt mũi nào sống ở thế gian”.

Phải biết, tâm đại chí là tâm ban đầu của lúc chưa ra tay hành động. Người phát tâm làm việc ­_ chưa lập chí vững chắc ­_ thường bỏ cuộc giữa đường. Người chí không cao thượng, hoặc không có chí thường bị thất bại, do đó biết sự quan hệ của đại chí rất sâu xa.

Thế nào là đại chí xung thiên? Là người thế gian_chưa từng thấy qua_ việc làm và các hành vi tốt đẹp mỹ mãn như thế, lời nói, sự hiểu biết, oai nghi, sự thật vượt lên trên tất cả mọi người _ cho nên gọi là đại chí xung thiên.

Thế nào là đại chí xuất cách? Người này ở trong quần chúng, làm bất cứ việc gì _ cũng không thích lạc thú thế gian, thích tịch tịnh, cho nên phát tâm xuất gia. Biết xuất gia vượt lên trên thế gian, biết xuất gia không phải chí xuất cách thì không làm nổi, đấy gọi là đại chí xuất cách.

Thế nào gọi là đại chí xuất thế? Một khi xuất gia, không hành khổ hạnh _ thì không thành công to. Một việc hành đạo có hai thứ hành là PHÚC và TUỆ.

Mới xuất gia cần phải trụ Tùng Lâm, trước tu gốc phúc.

  • Phúc là cội gốc thành Phật

  • Phúc là cội gốc của thân người

  • Phúc là cội gốc của thoát khổ

  • Phúc là cội gốc của tu tuệ

  • Phúc là cội gốc làm duyên để trụ lâu dài

  • Phúc là cội gốc kết duyên với người

  • Phúc là cội gốc của xuất gia

Thế nên biết_gốc phúc là phúc điền tối thượng. Bất cứ cái gì không tu có thể nói được, chứ không thể không tu phúc. Sao vậy? Vì phúc là của cải của Tăng sĩ, tiền là của cải của người đời. Người đời bất cứ cái gì không có cũng có thể được, nhưng không có tiền thì không được. Đây gọi là đại chí xuất thế.

Thế nào là đại chí thành Phật? Người tu hành lập chí _ phải lấy thành Phật làm đại chí.

  • Trước tu phúc là đại chí thành Phật

  • Sau tu tuệ là đại chí thành Phật

  • Thanh tịnh ba nghiệp là đại chí thành Phật

  • Nghiêm trì thánh giới là đại chí thành Phật

  • Cẩn thận giữ thanh quy là đại chí thành Phật

  • Trụ mãi ở Tùng Lâm là đại chí thành Phật

  • Không nhiễm thế duyên là đại chí thành Phật

  • Chuyên tâm niệm Phật là đại chí thành Phật

  • Đến cảm Phật vãng sinh là đại chí thành Phật

Đây gọi là đại chí thành Phật.

Người thế gian, người xuất thế gian hãy lấy các chí này làm người, lấy các chí này làm việc, nếu có thể làm đến được _ mới thật là bậc đại thánh ly dục.

Trích trong quyển Tham Thiền Phổ Thuyết

 

 

 

 

          TỔ LAI QUẢ DẠY

            THANH QUY

*******

      Người niệm Phật_cần nhất phải giữ thanh quy_mới có thể niệm Phật.

      Thanh quy là mô phạm công chánh thanh nghiêm. Công hay trừ được_ những điều tồi tệ riêng tư, chánh hay trừ được_cấu nhiễm tà vậy. Thanh hay trừ được_cấu bẩn nhơ uế. Nghiêm hay trừ được_thói quen biếng nhác. Cho nên dùng thanh quy để kiến lập Tùng Lâm, dùng thanh quy để sửa trị nhân cách, dùng thanh quy để lợi ích nhân thế, dùng thanh quy để thành Phật Tổ.

      Quy củ chẳng thanh nghiêm_thì con người theo đó mà biếng nhác. Quy củ chẳng công chánh_thì con người dễ thành ra tệ lậu. Thế nên biết, công chánh thanh nghiêm_là gốc của Tùng Lâm. Làm nền của Phật Tổ, làm con đường cho người niệm Phật, làm con thuyền của biển khổ, người giữ được thanh quy_thì thân chịu được khổ, tâm chịu được nhọc. Thà chết với thanh quy_chứ không sống với uế trược. Chúng ta vốn rất mờ tối, theo nghiệp lôi cuốn thì cảm thấy thích ý. Có chút bó buộc của quy củ_thì thấy khó chịu. Như thế có nên chăng?

         Người trụ Tùng Lâm phải biết: giữ quy củ là trừ tập khí ác cho mình, là cắt bỏ nghiệp chướng cho mình, cho nên phải giữ cho nghiêm chặt_ không nên sao lãng. Quy củ là khuôn pháp_làm cho người ta trở thành người tốt.

       “Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không, chưa liễu tình nguyện giữ quy củ”. Từ nay lập đại hạnh, phát đại nguyện_thề tử thủ thanh quy_quyết định chẳng theo nghiệp chướng chuyển. Thật sự do ta_chứ không dính líu gì đến nghiệp chướng cả.

 

Trích trong quyển Tham Thiền Phổ Thuyết

 

                TỔ HÁM SƠN DẠY

         TU PHÚC VÀ TU TUỆ

*******

Tu Tuệ bằng quán tâm, tu Phúc nơi vạn hạnh. Quán tâm lấy niệm Phật làm quan trọng nhất, vạn hạnh lấy hạnh cúng dường làm đầu, hai điều ấy bao gồm hết thảy. Trong hết thảy những việc làm hằng ngày của chúng ta, khởi tâm động niệm_đều là vọng tưởng, là gốc sinh tử, cho nên chuốc lấy quả khổ. Nay đem cái tâm vọng tưởng_chuyển thành tâm niệm Phật_thì mỗi niệm trở thành cái nhân Tịnh độ, tạo thành quả vui. Nếu niệm Phật tâm tâm chẳng dứt_thì vọng tưởng tiêu diệt, tâm quang phát lộ, trí tuệ hiện tiền_trở thành Pháp thân của Phật.

Sở dĩ chúng sinh bần cùng thiếu Phúc Tuệ, là do đời đời kiếp kiếp_chưa từng có một niệm cúng dường Tam Bảo_để cầu Phúc Tuệ, chỉ lăm lăm vì cái thân sinh tử khổ sở, niệm niệm mong cầu sự vui ngũ dục_để vun bồi cội khổ. Nay chuyển cái tâm tham cầu cho riêng ta_thành cái tâm cúng dường Tam Bảo, đem cái thân mạng hữu hạn_nương theo sức mạnh của tâm cúng dường mười phương, thì tuy chỉ cúng một nén hương, một cành hoa, một hạt gạo, một cọng rau, phúc ấy cũng vô tận, do đó cảm được Phật quả_Hoa Tạng trang nghiêm, tạo thành cảnh thọ dụng của chính thân mình trong tương lai. Bỏ qua những điều này_thì không có hạnh mầu nhiệm nào khác_để thành Phật.

Trích trong quyển Mộng Du Tập đời Minh

 

        TỔ HƯ VÂN DẠY

       THẬP PHÁP GIỚI

*******

Pháp tức là tâm chúng sinh. Tâm chúng sinh cùng tâm Phật vốn không khác biệt. Tâm này đầy đủ tất cả pháp. Pháp tức là tâm, và tâm tức là pháp. Luận Khởi Tín viết: "Gọi là pháp, tức tâm chúng sinh. Tâm này vốn đầy đủ tất cả pháp thế gian và xuất thế gian".

  • Pháp thế gian: tức là trời, người, A Tu La, địa ngục ngạ quỷ, súc sinh. Hết thảy loài hữu tình và vô tình hoặc những pháp y báo hay chánh báo, v.v... đều thuộc về sáu pháp giới của phàm phu.

  • Pháp xuất thế gian: tức là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, cũng được gọi là bốn pháp giới Thánh Hiền.

Gom chung bốn pháp giới của Thánh Hiền và sáu pháp giới của phàm phu, thành mười pháp giới. Mười pháp giới này chẳng ngoài một tâm niệm tạo nên. Nếu chạy theo duyên điên đảo ô nhiễm mê mờ thì sinh ra sáu pháp giới của phàm phu. Nếu không chạy theo duyên điên đảo ô nhiễm mê mờ mà tịnh tâm giác ngộ thì sẽ nhập vào bốn pháp giới của Thánh Hiền. Quán sát như thế, thấy rằng Thánh Hiền hay phàm phu đều do tâm cấu uế hay thanh tịnh mà hiển hiện. Tâm cấu uế của sáu loài phàm phu khiến hiện ra tướng của sáu đường thiện ác, tội phúc. Bốn pháp giới Thánh Hiền, do tâm tịnh nên hiện oai đức tự tại, quang minh sáng chói, đức tướng dung mạo từ bi. Kinh nói: "Bồ Tát như vầng trăng sáng thanh tịnh mát lành, thường đi khắp hư không. Trong tâm thanh tịnh và cấu uế của chúng sinh, Bồ Đề thường ảnh hiện".

Thế nên khổ đau hay an lạc đều do tâm. Nóng lạnh do mình. Tự tâm tạo nghiệp, rồi tự thân thọ quả báo. Cảnh Thánh cùng phàm hãy hỏi lại tự tâm thì sẽ rõ !

Phàm phu ngu muội hôn ám chẳng biết yếu chỉ tất cả đều do tâm tạo, nên vọng khởi nghi hoặc. Nếu gặp nghịch cảnh thì oán trời hận người. Nếu gặp thuận cảnh thì kiêu căng tự thị. Hoặc cả đời làm việc thiện nhưng lại bị quả báo ác, hoặc làm ác nhưng hưởng quả báo lành, nên hủy báng nhân quả. Phải biết rằng lý nhân quả rất thâm sâu; ví như sau khi gieo giống trồng cây, quả nào chín trước thì rụng trước. Đời nay, tuy mình luôn làm nghiệp lành, nhưng lại chiêu cảm quả báo xấu; phải biết đó là do nghiệp ác trong đời quá khứ đã đủ duyên chín mùi, nên phải thọ quả báo xấu trước. Nghiệp lành làm trong đời nay, vì chưa thành thục, nên hiện tại không thể thọ quả báo lành. Nếu tin lý này thì không nghi hoặc gì hết. Từ đời vô thủy, lầm đường lạc lối, tạo bao nghiệp chướng thâm trọng. Ngày nay quả báo chín muồi, nên phải thọ biết bao đắng cay khổ nhọc, không có lối thoát. Muốn thoát khổ thì phải làm sao ? Kinh Lăng Nghiêm nói: "Tất cả chúng sinh, bị sinh tử liên tục, đều do không biết chân tâm thường trụ, tánh tịnh thể sáng. Vì sống với vọng tưởng không chân thật, nên mới bị luân hồi".

Nếu muốn không bị thọ quả báo trong vòng sinh tử thì phải thường thanh tịnh hóa các vọng tưởng. Vọng tưởng nếu được thanh tịnh thì dòng luân hồi sẽ ngưng ngay. Do đó, tâm mê thì gọi là chúng sinh. Tâm giác gọi là Phật. Vì vậy, Phật và chúng sinh chỉ khác nhau ở mê và ngộ. Nên biết tâm giác tri linh minh sáng suốt này tức là Phật tánh tự nhiên mà ai ai cũng có đầy đủ, mỗi mỗi hiện thành. Phàm phu tuy có đủ Phật tánh, như vàng thật trong mỏ vàng, nhưng chỉ vì đất cát phiền não che lấp, nên trước mắt không thể dùng được. Đức Như Lai bao kiếp tu hành, đã đào thải cát đá hoặc nghiệp. Ngày nay, Ngài đã được một khối vàng tinh khiết, không lẫn lộn với cát đá, nên đại dụng hoàn toàn hiện rõ, và được gọi là bậc vượt khỏi chướng ngại, bậc viên minh, bậc Thế Tôn đại giác.

Hiện tại, chúng ta nếu muốn tu hành thành Phật, đầu tiên phải xem thử nhân địa phát tâm tu hành của mình như thế nào. Phải trừ khử cội gốc phiền não. Gốc khổ của phiền não nếu diệt thì Phật tánh hiển hiện tròn đầy. Nếu nhân địa tu hành không chân chánh, thì sẽ chịu quả báo cong vạy.

Trích yếu trong quyển Thiền Sư Hư Vân Ngữ Lục

Khai thị tại hý viện Bình an ngày 1/8/1947

 

           TỔ LIÊN TÔNG THỨ MƯỜI BA _ ĐẠI SƯ ẤN QUANG DẠY

          QUY TẮC TU HỌC

 

Bất luận là người tại gia hay xuất gia, cần phải:

1.  Trên kính dưới hòa

2.  Nhẫn những điều người khác khó nhẫn

3.  Làm những điều người khác khó làm

4.  Thay người làm những việc cực nhọc

5.  Thành tựu việc tốt cho người

6.  Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình

7.  Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người

8.  Lúc đi, đứng nằm ngồi Ăn mặc từ sáng đến tối,Từ tối đến sáng,Chỉ niệm Phật hiệuKhông để gián đoạn,

Hoặc niệm ra tiếng Hoặc niệm thầm.Ngoài việc niệm Phật, Đừng dấy khởi một niệm nào khác ,

       Nếu khởi vọng niệm phải tức thì bỏ ngay.

9.  Thường có lòng hổ thẹm và tâm sám hối

10.  Nếu đã tu trì phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn non cạn , chẳng nên tự kiêu căn , khoa trương.

11.  Chỉ nên chăm sóc việc nhà mình , đừng nên dính vào việc nhà người

12.  Chỉ nên nhìn những hình dạng tốt đẹp,  đừng để mắt tới hình dạng xấu xa , bại hoại

13.  Hãy coi mọi người đều là Bồ tát

 14.  Mà ta chỉ l kẻ phàm phu

Nếu quả tình có thể tu hành được như những điều kể trên thì nhất định sẽ sanh về Thế Giới Tây phương Cực lạc

 

Vô luận tại gia, xuất gia,tất tu:

  1. Thượng kính hạ hòa

  2. Nhẫn nhân sở bất năng nhẫn

  3. Hành nhân sở bất năng hành

  4. Đại nhân chi lao

  5. Thành nhân chi mỹ

  6. Tĩnh tọa thường tư kỷ quá

  7. Nhàn đàm bất luận nhân phi

  8. Hành trụ tọa ngọa Xuyên y khiết phạn Tùng triêu chí mộ Tùng mộ chí triêu , Nhất cú Phật hiệu

Bất linh gián đoạn  . Hoặc tiểu thinh niệm. Hoặc mặc niệm. Trừ niệm Phật ngoại. Bất khởi biệt niệm

Nhược hoặc vọng niệm nhất khởi  Đương hạ tựu yếu giáo tha tiêu diệt

9.Thường sinh tàm quý tâm cập sám hối tâm

10.  Túng hữu tu trì, tổng giác  ngã công phu ngận thiểu, bất tự căng khoa

11.  Chỉ quản tự gia, bất quản nhân gia

12.  Chỉ khán hảo dạng tử bất khán hoại dạng tử

13.  Khán nhất thiết chúng si đô thị Bồ tát

14.  Duy ngã nhất nh thật thị phàm phu

 

Quả năng y ngã sở thuyết tu hành quyết định khả sinh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới

 

               TỔ LIÊN TÔNG THỨ MƯỜI BA _ ĐẠI SƯ ẤN QUANG DẠY

              TÍN - NGUYỆN - HẠNH

*******

Phàm tu Tịnh nghiệp, phải lấy quyết chí cầu sinh Tây Phương làm gốc. Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông. Nói đến Tín thì phải biết Sa Bà là khổ, khổ không nói nổi! Cực Lạc là vui, vui không thể ví. Cái khổ trong Sa Bà là sinh, lão, bệnh, tử, yêu thương phải chia lìa, chán ghét cứ phải gặp gỡ, cầu không được, Ngũ Ấm hừng hực.

Sự vui trong Cực Lạc nếu ước theo căn thân thì hoa sen hóa sinh, trường sinh bất tử, mang thân nam, trọn không có hình dáng nữ, chẳng nghe đến cái tên ác đạo, huống gì thật có! Ước theo khí thế giới thì vàng ròng làm đất, bảy báu làm ao, hàng cây kín trời, lầu gác trụ trên không. Nghĩ đến áo bèn có áo, nghĩ đến ăn được ăn, phàm những thứ gì mình thọ dụng không gì chẳng được như ý, nhưng những gì dùng đến đều là hóa hiện; không như cõi này phải do sức người tạo tác mới thành. Di Đà đạo sư tướng hảo, quang minh vô lượng vô biên, vừa thấy từ dung liền chứng Pháp Nhẫn. Huống hồ còn có Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh hải hội, mỗi vị đều phóng tịnh quang cùng tuyên diệu âm. Vì thế, tuy là phàm phu đầy dẫy phiền não, nghiệp lực đầy thân nhưng nếu như tín nguyện chân thành, khẩn thiết liền được Phật từ nhiếp thọ. Vừa vãng sinh, phiền não, ác nghiệp bèn bị tiêu diệt triệt để, công đức, trí tuệ rốt ráo hiện tiền. Tin được như thế thì gọi là chân tín. Muốn biết tường tận nên đọc kỹ kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, những kinh này được gọi chung là Tịnh Độ Tam Kinh, chuyên giảng về duyên khởi, sự lý Tịnh Độ.

Kinh Đại Tập chép: “Đời Mạt Pháp ức ức người tu hành, hiếm có một kẻ đắc đạo, chỉ có niệm Phật mới thoát khỏi sinh tử”. Do vậy, biết một pháp Niệm Phật chính là đạo để thượng thánh hạ phàm cùng tu, là hạnh chung thực hành của mọi người dù ngu hay trí, hạ thủ dễ, thành công cao, dùng sức ít, hiệu quả nhanh chóng. Do chuyên cậy vào Phật lực, nên lợi ích thù thắng, là đạo pháp siêu việt đường lối thông thường. Người xưa nói: “Học đạo nơi các môn khác như con kiến bò lên núi cao, niệm Phật vãng sinh như căng buồm xuôi gió, thuận nước”. Có thể gọi là khéo hình dung nhất!

Đã sinh lòng tin rồi, ắt phải phát nguyện: Nguyện lìa Sa Bà như đang bị tù mong thoát khỏi lao ngục; nguyện sinh Cực Lạc như đứa con cùng quẫn mong về lại cố hương.

Nếu trước khi được sinh về Tịnh Độ, dẫu được trao ngôi vua trong cõi trời cõi người cũng nên coi đó là nhân duyên đọa lạc, trọn chẳng có một niệm mong mỏi, hâm mộ. Còn [những chuyện] như đời sau chuyển nữ thành nam, xuất gia từ tấm bé, nghe một hiểu ngàn, đắc Đại Tổng Trì, cũng nên coi như là đường tu đi vào ngõ rẽ, tâm trọn chẳng có một niệm mong mỏi. Chỉ muốn lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn vãng sinh Tây Phương. Đã được vãng sinh liền liễu sinh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, ở vào địa vị Bất Thoái, chứng Vô Sinh Nhẫn. Ngoảnh lại nhìn những chuyện làm vua trời người và xuất gia làm Tăng, không biết đến Tịnh Độ, tu các pháp môn khác, trải bao kiếp nhọc nhằn, không do đâu được giải thoát, như lửa đóm sánh cùng mặt trời rạng ngời, tổ kiến sánh cùng Thái Sơn, buồn bã khôn ngăn, thương xót khôn cầm! Vì thế người tu Tịnh Độ trọn chẳng thể cầu mong phúc lạc nhân thiên trong đời sau và xuất gia làm Tăng v.v…

Nếu tâm có mảy may mong cầu đời sau thì chính là không chân tín, nguyện thiết, bị cách ngăn với Phật Di Đà, chẳng thể cảm ứng đạo giao, chẳng được Phật tiếp dẫn, biến diệu hạnh thù thắng chẳng thể nghĩ bàn này thành cái nhân phúc báo hữu lậu nhân thiên. Hà huống lúc hưởng thụ ắt tạo ác nghiệp. Đã tạo ác nghiệp, khó tránh khỏi ác báo, như bỏ chất độc trong Đề Hồ có thể giết người. Chẳng khéo dụng tâm còn tệ hơn thế. Phải triệt để chém đứt những ý niệm ấy mới mong được lợi ích hoàn toàn nơi Tịnh Độ, toàn thân thọ dụng. Đã có chân tín, nguyện thiết, ắt phải chí tâm chấp trì sáu chữ thánh hiệu “nam mô A Di Đà Phật”, bất luận đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, im lặng, mặc áo, ăn cơm, và lúc đại tiểu tiện v.v… đều chẳng lìa sáu chữ hồng danh, ắt phải dốc toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, tâm - Phật không hai; tâm - Phật như một. Nếu có thể niệm đâu chú tâm đó, niệm đến cùng cực, bao tình kiến mất hết, tâm không, Phật hiện, thì trong đời này tự có thể chứng được tam-muội. Đến lúc lâm chung, sinh vào Thượng Thượng Phẩm, có thể nói là đã tu trì đến cùng cực vậy.

Ngay trong sinh hoạt thường ngày, với tất cả những điều thiện nhỏ nhặt và các thiện căn như tụng kinh, lễ bái… đều đem những công đức ấy hồi hướng vãng sinh. Như thế thì hết thảy hạnh môn đều thành trợ hạnh cho Tịnh Độ, như gom vi trần thành đất, tụ các dòng nước thành biển, rộng lớn sâu thẳm, ai cùng tột được! Nhưng phải phát Bồ Đề tâm, thệ nguyện độ sinh, tất cả công đức tu trì hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sinh bốn ân ba cõi. Giống như đổ dầu vào lửa, như mạ gặp mưa; đã kết pháp duyên sâu xa cùng hết thảy chúng sinh lại còn có thể mau thành tựu hạnh Đại Thừa thù thắng cho chính mình. Nếu không biết nghĩa này thì là kiến giải tự lợi của phàm phu Nhị Thừa, dẫu tu diệu hạnh này, nhưng chỉ cảm được quả hèn kém.

Tuy hết thảy thời, hết thảy lúc niệm Phật đều không trở ngại, nhưng phải thường nên kiêng dè; coi tượng Phật giống như Phật sống, coi kinh Phật, lời Tổ giống như Phật, Tổ đang hướng về mình thuyết pháp, chẳng dám ôm lòng hoài nghi tí nào. Dẫu hiếu tử đọc di chúc, trung thần vâng sắc chỉ cũng chẳng thể hơn được. Trong lúc bình thời niệm Phật, niệm ra tiếng hay niệm thầm tùy ý, còn lúc ngủ nghỉ hoặc đại tiểu tiện, tắm gội, rửa chân v.v…và đi qua chỗ hôi nhơ, chẳng sạch đều nên niệm thầm, chớ nên niệm ra tiếng. Niệm ra tiếng là không cung kính, niệm thầm công đức cũng thế.

Tôi thường nói muốn được lợi ích nơi Phật pháp phải hướng về cung kính mà cầu. Có một phần cung kính ắt tiêu một phần tội nghiệp, tăng một phần phúc tuệ. Có mười phần cung kính, tiêu được mười phần tội nghiệp, tăng được mười phần phúc tuệ. Nếu trọn chẳng cung kính thì dù có trồng nhân lành, nhưng cái tội khinh nhờn chẳng thể tưởng tượng được! Nay những kẻ tại gia đọc kinh Phật đều phạm phải những bệnh ấy. Vì thế, đối trước những kẻ hữu duyên phải thường ra rả nói. Niệm Phật cần phải nhiếp tâm, niệm từ tâm khởi, tiếng từ miệng phát ra, đều phải mỗi câu mỗi chữ phân minh, phân minh rành rẽ. Lại phải lắng tai nghe kỹ, từng câu từng chữ phân minh, nạp vào trong tâm. Nhĩ căn đã nhiếp thì các căn kia không cách chi rong ruổi bên ngoài, mới hòng mau đạt nhất tâm bất loạn.

Đại Thế Chí Bồ Tát nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc tam-ma-địa ấy là bậc nhất” chính là chỉ về điều này vậy. Ngài Văn Thù nói: “Quay trở lại nghe nơi tự tánh, tánh thành vô thượng đạo” cũng nhằm chỉ điều này. Chớ bảo pháp Trì Danh là thiển cận rồi bỏ bê, tu theo những pháp Quán Tượng, Quán Tưởng, Thật Tướng. Phàm trong bốn cách niệm Phật chỉ có Trì Danh là khế cơ nhất. Trì đến nhất tâm bất loạn thì diệu lý Thật Tướng hiển lộ toàn thể, Tây Phương diệu cảnh triệt để phô bày trọn vẹn. Do trì danh chứng được Thật Tướng, chẳng cần quán tưởng vẫn thấy được Tây Phương. Một pháp Trì Danh chính là huyền môn để nhập đạo, là đường tắt để thành Phật. Người đời nay dạy lý quán pháp chẳng hiểu rõ. Nếu tu quán tưởng Thật Tướng rất có thể bị ma dựa, khéo quá hóa vụng, cầu thăng hóa đọa. Nên tu hạnh dễ hành, ắt tự cảm được quả chí diệu.

Trích trong bộ Ấn Quang Văn Sao , thư gởi nữ sĩ Từ Phúc Hiền

 

 

                TỔ LIÊN TÔNG THỨ MƯỜI BA _ ĐẠI SƯ ẤN QUANG DẠY

THÂN NGƯỜI KHÓ ĐƯỢC

*******

Nếu biết thân người khó được, Phật pháp khó nghe, pháp môn Tịnh Độ lại càng khó được nghe hơn, nay may mắn được làm thân đại trượng phu, lại được nghe pháp môn Tịnh Độ khó được nghe nhất, có dám để quang âm hữu hạn bị tiêu hao sạch nơi thanh sắc, vật chất, lợi lộc, khiến cho vẫn sống thừa chết uổng y như cũ, vẫn bị trầm luân lục đạo, không mong có ngày thoát ra hay sao? Phải đem một chữ Chết dán cho rủ xuống trán. Phàm khi những cảnh tham luyến [đáng lẽ] chẳng nên có [mà lại] hiện tiền liền biết đấy chính là vạc sôi, lò than của chính mình, sẽ trọn chẳng đến nỗi như con thiêu thân gieo mình vào lửa, tự đốt thân mình.

Ngày Ba Mươi tháng Chạp, chính là ngày cuối cùng của một năm, nếu trước đó chưa từng dàn xếp cho khéo thì chủ nợ oan gia lũ lượt kéo đến bức ngặt, há dung cho ông sao? Lúc mạng sắp hết chính là ngày Ba Mươi tháng Chạp của một đời người vậy. Nếu tư lương Tín - Nguyện - Hạnh chưa đầy đủ, ác tập khí tham - sân - si vẫn còn thì oán gia chủ nợ trong vô lượng kiếp đều kéo đến tính sổ, há chịu dễ dãi với ông ư? Đừng nói chi kẻ không biết đến pháp môn Tịnh Độ không biết làm sao, phải tùy nghiệp thọ sinh; dẫu cho kẻ biết đi nữa, nhưng không thật sự chuyên chú tu tập cũng sẽ giống như thế, bị ác nghiệp lôi vào trong tam đồ lục đạo, vĩnh viễn luân hồi.

Muốn cầu đường trọng yếu để thoát khổ chỉ có niệm niệm sợ chết và sợ chết đi phải đọa lạc trong tam đồ ác đạo, thì niệm Phật sẽ tự thuần, Tịnh nghiệp sẽ tự thành, hết thảy trần cảnh sẽ chẳng thể đoạt được chánh niệm nữa!

                                                                                          Trích trong bộ Ấn Quang Văn Sao , thư trả lời thư cư sĩ X… ở Ninh Ba

 

                 TỔ LIÊN TÔNG THỨ MƯỜI BA _ ĐẠI SƯ ẤN QUANG DẠY

CÁCH DỤNG CÔNG NIỆM PHẬT

*******

Quả đúng là “ba cõi không yên, giống như nhà lửa”, đấy cũng là lời răn nhắc thiết yếu nhất đối với chuyện tín nguyện niệm Phật vãng sinh Tây Phương. Niệm Phật tâm không quy nhất là do tâm sinh tử chưa khẩn thiết. Nếu nghĩ như đang bị nước cuốn lửa đốt, không được cứu giúp, tưởng sắp bị chết, sắp đọa địa ngục thì tâm sẽ tự quy nhất, không cần đến diệu pháp nào khác. Vì thế, trong kinh thường nói: “Nghĩ cái khổ trong cõi địa ngục, phát tâm Bồ Đề”. Đấy chính là khai thị thiết yếu nhất của Đại Giác Thế Tôn, tiếc là con người chẳng chịu thật sự suy nghĩ! Cái khổ trong địa ngục so với sự thảm thương của nước lửa sâu nặng hơn vô lượng vô biên lần. Thế mà nghĩ đến nước dâng lửa đốt bèn run rẩy, nghĩ đến địa ngục lại coi thường là vì một đằng do tâm lực nhỏ nhoi chẳng thể thấu hiểu sự khổ ấy, còn một đằng là chính mắt thấy, bất giác lông tóc đều dựng đứng!

Trích trong bộ Ấn Quang Văn Sao , thư gởi cư sĩ Bao Sư Hiền

 

 

TỔ LIÊN TÔNG THỨ MƯỜI BA _ ĐẠI SƯ ẤN QUANG DẠY

CHẲNG NÊN CẦU PHÚC BÁO NHÂN THIÊN

*******

Dẫu thọ trăm năm, khảy tay liền qua. Còn một hơi thở nên cầu đường ra, chớ để đến lúc lâm chung hối không kịp nữa! Thường nhớ kinh dạy: “Thân người khó được, chính giữa đất nước khó sinh, Phật pháp khó nghe, tín tâm khó sinh”. Ông may mắn hội đủ cả bốn điều ấy, càng phải nên nỗ lực, như lên núi báu phải được Ma Ni. Do còn ở địa vị phàm phu, chưa đoạn Hoặc nghiệp, sinh tử chưa giải quyết khó khỏi đọa lạc. Vì vậy, đức Như Lai cực lực khuyên chúng sinh phát chân tín tâm và tâm nguyện khẩn thiết, trì danh hiệu Phật cầu sinh Tịnh Độ. Mọi công đức như: cúng dường Tam Bảo, trọn đời giữ giới, hết thảy việc làm… chớ dùng để cầu phúc báo nhân thiên trong đời sau, chẳng cầu đời này trường thọ, mạnh khỏe, bình yên, chỉ cầu lâm chung vãng sinh Tịnh Độ, tương khế, tương hợp với thệ nguyện của chư Phật, cảm ứng đạo giao nhất định mãn sở nguyện.

Trích trong bộ Ấn Quang Văn Sao, thư gởi cư sĩ X… (viết thay sư Liễu Dư)

 

                     TỔ LIÊN TÔNG THỨ MƯỜI BA _ ĐẠI SƯ ẤN QUANG DẠY

PHÁP MÔN DỄ HÀNH DỄ CHỨNG

*******

      Nếu muốn tự được lợi ích thật sự trong đời này, hãy nên nương vào pháp môn Tịnh Độ, tín nguyện niệm Phật cầu sinh Tây Phương sẽ quyết định liễu sinh thoát tử. Nếu chẳng nương vào pháp môn Niệm Phật, đừng nói chi kẻ chưa đắc chân truyền của Phật giáo chẳng thể liễu, ngay cả người đắc rồi cũng chẳng thể liễu. Vì sao vậy? Vì được chân truyền chỉ là bậc đại triệt đại ngộ, chưa phải là thật chứng. Có chứng mới liễu được, còn ngộ thì chưa thể liễu. Tu các pháp môn khác đều phải đoạn Hoặc chứng Chân mới có thể liễu sinh tử. Pháp môn Tịnh Độ chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha trì danh hiệu Phật, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, hành cả Chánh Hạnh lẫn Trợ Hạnh thì chẳng những quyết định vãng sinh mà phẩm vị còn ưu thắng. Không riêng gì kẻ tinh ròng, thuần thành, sốt sắng quyết định được vãng sinh, ngay cả phường Ngũ Nghịch Thập Ác lúc lâm chung nếu có thể sinh lòng hổ thẹn lớn lao, sinh lòng lo sợ lớn lao, chí tâm niệm Phật mấy tiếng, ngay khi đó bèn mạng chung, cũng quyết định được vãng sinh. Do lòng từ của Phật rộng lớn, chuyên chăm chú độ sinh, nhất niệm hồi quang liền được Phật nhiếp thọ. Đấy gọi là “cậy vào từ lực của Phật, đới nghiệp vãng sinh”. Chúng sinh đời Mạt chẳng y vào Tịnh Độ, tu các pháp môn khác, chỉ được phúc báo trời người và thành nhân duyên đắc độ trong tương lai mà thôi. Do không có sức đoạn Hoặc, nên cội rễ sinh tử vẫn còn, sao không nẩy mầm sinh tử cho được?

Trích trong bộ Ấn Quang Văn Sao , thư trả lời cư sĩ Nhạc Tiên Kiệu

 

                        TỔ LIÊN TÔNG THỨ MƯỜI BA _ ĐẠI SƯ ẤN QUANG DẠY

TÔNG CHỈ CỦA PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ

*******

Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông. Có tín nguyện chẳng cần biết là hạnh nhiều - ít, sâu - cạn, đều được vãng sinh. Không có tín - nguyện, dù có đạt đến mức độ Năng - Sở cùng mất, thoát khỏi căn trần, cũng khó được vãng sinh. Còn như người thật sự chứng được Thật Lý “Năng - Sở đều mất, thoát khỏi căn lẫn trần” bèn có thể dùng tự lực để liễu sinh tử thì chẳng cần phải bàn đến nữa! Nếu chỉ có công phu thấy được lý ấy, nhưng vẫn chưa thật chứng, lại không có tín nguyện thì cũng khó thể vãng sinh. Thiền gia nói đến Tịnh Độ bèn quy về Thiền Tông, không nói đến tín - nguyện; nếu tu tập theo đó thì cũng có thể khai ngộ. Nhưng chưa đoạn Hoặc nghiệp mà muốn liễu sinh tử thì dù có mộng cũng chẳng mộng được! Bởi lẽ, phàm phu vãng sinh dùng tín nguyện cảm Phật, nên có thể cậy vào Phật từ lực, đới nghiệp vãng sinh. Nay đã không sinh tín nguyện, lại đem mỗi lời Phật nói quy hết về tự tâm thì làm sao cảm Phật cho được?

Cảm và ứng chẳng phù hợp nhau thì chúng sinh là chúng sinh, Phật là Phật, biến pháp “hoành siêu” (vượt thoát tam giới theo chiều ngang) thành “thụ siêu” (vượt ra theo chiều dọc), được lợi ích ít, bị tổn hại nhiều, không thể không biết! Được lợi ích là nương theo lời đó cũng có thể khai ngộ; còn bị tổn hại là đã bỏ tín nguyện thì không cách gì nương vào Phật từ lực cho được! Vì thế, tôi nói: “Đối với người thật sự tu Tịnh Độ, những khai thị của nhà Thiền chẳng thể dùng được; bởi lẽ pháp môn, tông chỉ bất đồng”.

Trích trong bộ Ấn Quang Văn Sao , thư trả lời cư sĩ Hà Tuệ Chiêu

 

                    TỔ LIÊN TÔNG THỨ MƯỜI BA _ ĐẠI SƯ ẤN QUANG DẠY

CÁCH DỤNG CÔNG NIỆM PHẬT

*******

Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp một đời của đức Như Lai không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sinh đoạn phiền Hoặc liễu sinh tử, chứng Vô Sinh Nhẫn thành Phật đạo. Nhưng căn cơ của chúng sinh bất nhất, cho nên mỗi người đạt được lợi ích khác biệt. Những ai có túc căn sâu dầy thì có thể đoạn sạch được Kiến - Tư ngay trong một đời này, vượt thoát tam giới, tiến lên học theo đạo Bồ Tát “trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh” để cầu viên mãn Bồ Đề, may mắn gì hơn? Nếu như căn cơ kém cỏi hơn đôi chút, dẫu có sức Thiền Định sâu, triệt ngộ tự tâm, nhưng chưa đoạn được Kiến - Tư, ắt vẫn phải luân hồi y như cũ! Huống gì từ đời này sang đời khác, làm sao có thể tự bảo đảm được? Hễ bị phúc làm mê, ắt đọa thẳng vào tam đồ! Kẻ kém hơn thì còn gì để nói nữa! Đấy là chỗ khó khăn của việc dùng tự lực để liễu sinh tử vậy.

Đức Như Lai sớm biết chúng sinh đời Mạt không có sức đoạn Hoặc, nên đặc biệt mở ra một pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sinh Tây Phương, khiến cho hàng Pháp Thân đại sĩ và hạng phàm phu đầy dẫy triền phược cũng như tội nhân Ngũ Nghịch Thập Ác cực nặng đều cùng trong một đời này vãng sinh Tây Phương. Đã vãng sinh Tây Phương thì liễu sinh thoát tử siêu phàm nhập thánh, ai nấy tùy theo khả năng của chính mình mà ngộ chứng. Tâm từ bi vỗ về, nuôi dạy ấy dù có lấy thiên địa phụ mẫu cũng chẳng thể sánh ví được muôn một. Bởi lẽ, pháp môn này cậy vào sức tín nguyện niệm Phật của chính mình để cảm sức từ bi nhiếp thọ của Phật, cảm ứng đạo giao, cho nên chẳng cần đoạn phiền hoặc mà đới nghiệp vãng sinh. So với cách cậy vào tự lực thì khó - dễ dù có hết cả năm cũng chẳng thể nói trọn. Người niệm Phật nếu biết được nghĩa này sẽ tự chết được cái tâm chụp giựt, chuyên tu pháp môn này, chẳng đến nỗi ham cao chuộng xa, bị những lời lẽ của kinh giáo hay tri thức lay chuyển để rồi bỏ pháp này tu những pháp khác. Xin khắp những ai thấy nghe đều tin tưởng chắc chắn!

T                                   rích trong bộ Ấn Quang Văn Sao

 

                      

*******

Tham có nghĩa là thấy cảnh bèn dấy lòng yêu thích. Chúng sinh trong Dục Giới đều do dâm dục mà sinh. Dâm dục do ái sinh. Nếu có thể quán sát mỗi mỗi kỹ càng thân mình, thân người từ ngoài vào trong thì chỉ thấy hờm đất, mồ hôi, đờm rãi, tóc, lông, móng, răng, xương, thịt, máu, mủ, đại tiện, tiểu tiện, thối như xác chết, bẩn như chuồng xí, ai có thể sinh lòng tham ái đối với vật này cho được! Tham ái đã dứt thì tâm địa thanh tịnh. Dùng tâm thanh tịnh niệm danh hiệu Phật, như chất ngọt được trộn lẫn, như vải trắng ăn màu, dùng Nhân Địa Tâm khế hợp Quả Địa Giác, sự giảm được nửa mà công gấp bội, lợi ích khó nghĩ suy!

Sân là thấy cảnh khởi tâm bực bội, chán ghét. Người phú quý thường hay nóng giận. Phàm mọi chuyện muốn được như ý phải có người [để sai bảo], hễ hơi chút sai trái liền sinh phẫn nộ, nhẹ thì buông lời dữ ác, nặng thì roi vọt vụt đánh, chỉ cốt khoái ý mình, chẳng đoái hoài người khác đau lòng! Lại nữa, tâm sân nếu khởi lên thì vô ích cho người, tổn hại cho mình, nhẹ thì cũng khiến cho tâm ý bực bội, xáo động; nặng thì gan lẫn mắt đều bị tổn thương. Hãy nên giữ sao cho trong tâm thường có một khối nguyên khí thái hòa thì bệnh tật tiêu diệt, phúc thọ tăng trưởng. Xưa kia vua A Kỳ Đạt (A Xà Thế) cả đời thờ Phật, giữ vững năm giới, khi lâm chung do người hầu cầm quạt đuổi ruồi, quạt lâu mệt mỏi, hôn trầm, đánh rơi cây quạt rớt trúng mặt vua, tâm vua sinh phiền hận, ngay lập tức mạng chung. Do một niệm ấy liền mang thân mãng xà. Do sức túc phúc, còn biết được nhân ấy bèn cầu sa-môn dạy cho Tam Quy, Ngũ Giới, liền thoát thân mãng xà, sinh lên trên trời. Do vậy biết thói nóng giận gây hại rất lớn. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Một niệm sân tâm khởi, trăm ngàn cửa chướng mở!” Cổ đức nói: “Sân là lửa trong tâm, cháy trụi rừng công đức. Muốn học đạo Bồ Đề, nhẫn nhục phòng tâm sân”.

Như Lai dạy chúng sinh nhiều sân tu Từ Bi Quán như sau: Xem hết thảy chúng sinh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai. Đã là cha mẹ trong quá khứ thì nên nghĩ đời trước họ có ân đức sinh thành, dưỡng dục, thẹn chưa thể báo đáp, há có nên vì chuyện trái ý nhỏ nhặt bèn ôm lòng phẫn nộ ư? Đã là vị lai chư Phật ắt sẽ rộng độ chúng sinh. Nếu ta chưa giải quyết được sinh tử, vẫn mong họ đến độ thoát! Chẳng những chuyện trái ý nhỏ nhặt không nên nổi nóng, dẫu là chuyện táng thân mất mạng cũng chỉ sinh hoan hỷ, chẳng sinh sân hận! Vì vậy, lúc Bồ Tát xả đầu, mắt, tủy, não, đều xem người xin những thứ ấy như thiện tri thức, coi như ân nhân, coi như người thành tựu đạo Bồ Đề vô thượng cho mình. Xem phẩm Thập Hồi Hướng trong kinh Hoa Nghiêm sẽ tự biết.

Lại nữa, một niệm tâm tánh của chúng ta và chư Phật không hai. Chỉ vì mê trái bổn tâm, chấp chặt Ngã Kiến nên hết thảy các duyên đều thành đối đãi. Như cái bia để bắn đã lập thì các mũi tên đều nhắm vào. Nếu biết được tâm ta vốn là tâm Phật, Phật tâm không, vô sở hữu. Giống như hư không: Sâm la vạn tượng không gì chẳng bao gồm. Cũng như biển cả: Trăm sông mọi nguồn nước không gì chẳng dung nạp. Như trời che chở khắp, như đất nâng bình đẳng, chẳng coi chuyện che chở, nâng đỡ là đức. Nếu ta do chuyện nghịch ý nhỏ nhặt bèn sinh nóng giận thì chẳng những khiến cho tâm lượng chính mình thành hẹp hòi, mà còn tự đánh mất cả đức. Tuy có đủ Phật tâm lý thể nhưng khởi tâm động niệm toàn là xử sự theo phàm tình, coi vọng là chân, biến tớ thành chủ; suy nghĩ như thế há không hổ thẹn ư? Nếu bình thời thường nghĩ như thế thì tâm lượng sẽ rộng lớn, không gì chẳng dung được, coi muôn loài như chính mình, chẳng thấy đây - kia. Điều nghịch xảy đến còn thuận chịu được, huống gì những chuyện trái ý nhỏ nhặt mà lại sinh nóng giận ư?

Ngu si nghĩa là hoàn toàn không có tri thức, tức là nói thế nhân đối với cảnh duyên thiện - ác chẳng biết đều là do túc nghiệp chuốc lấy, do hành vi trong hiện tại cảm lấy, lầm lạc bảo là không có nhân quả báo ứng, và những chuyện đời trước, đời sau v.v… Hết thảy chúng sinh không có con mắt tuệ, nếu không chấp Đoạn thì lại chấp Thường. Chấp Đoạn là nói con người bẩm thụ khí chất của cha mẹ mà sinh ra, trước lúc được sinh ra vốn chẳng có vật gì, đến lúc chết rồi, hình hài đã mục nát thì hồn cũng phiêu tán; làm gì có đời trước cũng như đời sau! Những nhà Nho câu nệ, hẹp hòi cõi này đa phần nói như thế. Chấp Thường là nói con người thường làm người, súc vật thường làm súc vật; chẳng biết nghiệp do tâm tạo, hình tùy tâm chuyển.

Trích trong bộ Ấn Quang Văn Sao

 

 

TỔ LIÊN TÔNG THỨ MƯỜI BA _ ĐẠI SƯ ẤN QUANG DẠY

LỢI ÍCH CỦA SỰ CUNG KÍNH

*******

Muốn được lợi ích thật sự nơi Phật pháp thì phải hướng về cung kính mà cầu. Có một phần cung kính thì tiêu tội nghiệp một phần, tăng phúc tuệ một phần. Có cung kính mười phần, thì tiêu tội nghiệp mười phần, tăng phúc tuệ mười phần. Nếu không cung kính đến nỗi khinh nhờn thì tội nghiệp càng tăng, phúc tuệ càng giảm.

Trích trong bộ Ấn Quang Văn Sao , thư trả lời cư sĩ Đặng Bá Thành

 

                             LỜI DẠY CỦA NGÀI THÍCH ĐỨC NHUẬN

TAM QUY

*********

Đức Pháp Chủ Thích Đức Nhuận rất quan tâm đến pháp Tam y. Vì đây là nền tảng của tất cả Phật giáo. Ngài cho bài mẫu sau đây để người truyền trao xem kỹ rồi tùy căn cơ kẻ thọ lãnh mà liệu lời chỉ dẫn :

A. THƯỜNG TRỤ TAM BẢO

1. Phật Bảo vẫn thường trụ ở khắp mười phương, suốt quá khứ hiện tại vị lai, không bao giờ vắng mặt. Chỉ vì không hình không tướng nên thế gian không ngờ là Phật vẫn ngày đêm ở ngay trước mặt mình, ở ngay trong tâm mình, ở ngay khắp quanh mình. Phật lấy vạn pháp làm thân (Pháp thân) nên chỗ nào cũng có Phật. Huống chi nơi xi măng, tượng giấy làm sao không có Phật đứng đấy. Ai cúng dường tượng Phật được phúc như cúng Phật tại thế. Một thương gia đi buôn ở xứ Phật. Trở về gần tới nhà mới nhớ lời mẹ dặn: Thỉnh cho mẹ ở xứ kia một cái răng Phật. Cùng quá anh đành tìm một cái răng lợn. Bà mẹ mừng rỡ hằng ngày lễ lạy. Một hôm tháp thờ phóng hào quang. Câu chuyện được ghi trong sách để nhắc các Phật tử: Hễ tín kính là có linh ứng cảm thông, chẳng cứ lễ vật quý giá hay tầm thường. Chúng Tăng mỗi bữa cơm cúng Phật để các thí chủ được phúc.

2. Quy y thường trụ Pháp bảo là quay về nương tựa tánh thể Niết bàn. Mười phương Phật, mười phương chúng sinh vốn đồng một thể tánh thường trụ chân như. Sống với tánh này là Phật. Mê tánh này là chúng sinh. Buông xả đường mê, trở về sống với tánh này là Bồ tát. Từ vô thủy bị vô minh che lấp, kết sử trói chằng nên quên hẳn chân tâm bản tánh. Nay phải quay về. Muốn trở về cần có bốn trí tuệ :

a. Khổ đế: Biết quyết chắc thế gian là khổ. Dù làm Vua, dù là Trời,dù tu Tiên, hễ còn thân nghiệp báo là còn khổ.

b. Tập đế: Tham sân si mạn nghi tà kiến...các thứ phiền não quyết định là gốc khổ.

c. Diệt đế: Tin chắc chắn tánh thể của mình thường lạc ngã tịnh. Chỉ cần xả hết tập khí phiền não là chứng Niết bàn.

d. Đạo đế:  Tin quyết chắc chỉ có Tam bảo là chỗ nương tựa

B. TRỤ TRÌ TAM BẢO

Vì chúng sinh sống với sự tướng, khó tin được những gì mắt không thấy, tai không nghe. Nên đức Phật giáng thần về xứ Ấn Độ, hiện thân tu hành chứng quả. Giáo lý của Phật dạy các đệ tử phải quan sát tánh chất của thế gian là vô thường, vô ngã, khổ và không. Phàm đã có hình tướng đều là hư vọng. Ai lấy âm thanh sắc tướng cầu Phật, đều là tà đạo, không bao giờ có thể thấy Như Lai. Cho nên đích thân Phật cũng thị hiện vô thường, đúng pháp lý thế gian, Phật nhập Niết bàn.

Để các đệ tử khỏi bơ vơ mất đạo, lịch đại Tổ Sư cho tạc tượng vẽ hình, thành ngôi Phật bảo trụ trì. Quý Ngài kết tập ba tạng Kinh Luật Luận, truyền bá khắp nhân gian vòng quanh trái đất. Đây là ngôi Pháp bảo trụ trì. Đã ba ngàn năm, liệt vị Tăng Ni nối tiếp trụ tại thế gian để trì gia nghiệp Như Lai. Ai quy y tội diệt hằng sa, ai chiêm ngưỡng phúc báu vô lượng.

Kinh chép: Một mùa hạ, đức Phật lên cung trời Đao Lợi độ cho mẫu thân. Vua Ưu Điền sai thợ lấy gỗ tạc hình Phật để ngày đêm lễ lạy. Phật trở về nhân gian. Vua thỉnh Phật vào cung. Đứng trước pho tượng của chính mình, đức Phật đã cúi đầu chắp tay nói: "Thỉnh Ngài lưu lại ở thế gian để làm bóng mát cho muôn loài".

Phàm thấy tượng nên nghĩ đang được thấy Phật. Phàm thấy kinh sách nên biết đây là thắng duyên khó gặp. Phàm thấy Tăng Ni nên kính như các bậc Thầy của cả trời người.

C. ĐỒNG THỂ TAM BẢO

Quy y trụ trì Tam bảo cốt để nương tựa thường trụ Tam bảo mà nhận được đồng thể Tam bảo ở ngay nơi mình. Đây chính là chỗ cứu cánh của pháp Tam Quy. Hằng ngày lạy tam tự quy:

  • Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, hiểu rõ đạo lớn, phát tâm Bồ đề

  • Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, vào sâu kinh tạng, trí tuệ như biển.

  • Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại-chúng, hết thảy không ngại.

Là quay về nương tựa Phật, Pháp, Tăng nơi tự tâm.

  • Quy y Phật đồng thể, là quay về nương tựa chân trí bản giác. Bỏ mê về tỉnh. Như xưa kia khư khư chấp ngã nay tỉnh ra, rộng lòng thương tất cả chúng sinh.

  • Quy y Pháp đồng thể, là chân tâm bản tánh thật tướng lý thể. Như nước Tàu thời xưa chỉ chăm đọc tụng Kinh điển, nặng về thơ phú văn chương. Tổ Đạt Ma ứng bệnh cho thuốc, dạy phải trở về chứng ngộ tâm thể của mình. Hễ tâm định thì trí sáng. Phật đạo phải cầu ở tự tâm.

  • Quy y Tăng đồng thể, là trí lý hòa hợp. Trí: Phật; Lý: Pháp. Tăng là năng lực đem ánh sáng trí tuệ quay về soi chân tâm bản tánh mình, không rong ruổi theo ngoại cảnh nữa.

Như vậy, Pháp là thể. Phật và Tăng là dụng. Chung quy không ra ngoài tâm ta nên gọi là Tam bảo đồng thể.

Thường trụ Tam bảo:

Phật: Pháp thân

Pháp: Niết bàn thể tánh

Tăng: Đệ nhất nghĩa Tăng

Trụ trì Tam bảo:

Phật: Đức Thích Ca, tượng Phật

Pháp: Kinh Luật Luận

Tăng: Tăng Ni, các đệ tử Phật

Đồng thể Tam bảo

Phật: Trí tuệ tự tánh

Pháp: Chân tâm lý tánh

Tăng: Trí lý hòa hợp (trí tuệ hằng tự chiếu soi thân tâm mình nên hằng tự giác, tự chủ)

 

   LỜI DI CHÚC CỦA SƯ BÀ TỌA CHỦ

   CHÙA ĐỨC VIÊN

*********

Tôi làm chùa với tâm niệm mong mọi người được thấm nhuần giáo pháp mầu nhiệm tiến tu an vui giải thoát. Chùa không phải là sở hữu riêng ai, của chung cho những ai, tu và hành trì giới luật, hằng sống trong chánh pháp, thực hành chí hướng lợi tha. Vậy mong quý Sư Cô và toàn chúng cùng nhau tu học và góp phần xây dựng cho tiếng pháp Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xả được lan truyền sâu rộng, mọi người mọi nơi đều được hưởng an lạc và vãng sinh Cực lạc.

Mỗi người nên sống trong giới luật, kính nhường, hòa thuận, thông cảm cùng vui tu học hành đạo. Đừng phân biệt gây cảm tình riêng, bè phái, chia rẽ, hiềm thù, xích mích lẫn nhau để thối thất hạnh nguyện Bồ-đề, muôn kiếp khó gặp. Phải sống luôn tâm niệm thực hành: “Vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai” để đền đáp bốn ân sâu.

Trích đoạn trong lời di chúc của Sư Bà tọa chủ Chùa Đức Viên

chu tieu.PNG
bottom of page