Châu Lợi Bàn Đặc
Einstein Giải Thích Thuyết Trương Đối
A Xà Thế
Ca Lưu Đà Di
Hai Bà Hàng Xóm
Hòa Thượng Cua
Chúa Và Quỷ
Bốn Viên Ngọc
Bảy Mươi Năm Cuộc Đời
Ma Đăng Già Mục Đế Lệ
Quả Bí Đầu Mùa
Dây Vạn Niên Thanh
Chiếc Giày Chờ Đợi
Giá Trị Lời Nói
Chùm Nho Mơ Ước
Ván Cờ Định Mệnh
Ba Tội Đáng Chết
Hoa Vương
Người Đánh Xe
Công Chúa Xử Kiện
Châu Lợi Bàn Đặc (Cù Lapanthaka)
Châu Lợi Bàn Đặc là một tăng sĩ có trí nhớ kém cỏi lạ lùng, dù thầy hãy còn trẻ và mặt mũi rất khôi ngô. Cùng xuất gia một lượt với ông anh, cùng nghe giảng pháp từ đức đạo sư và các thầy giáo thọ, A Xà Lê. Vậy mà, trong khi ông anh đã đắc quả A La Hán thì Châu Lợi Bàn Đặc vẫn chưa thuộc nổi một bài kệ có bốn câu, dù thầy đã gắng hết tâm sức để học nó suốt hằng mấy tuần trăng.
Trí nhớ kém cỏi của Châu Lợi Bàn Đặc đã làm khổ lòng chư vị giáo thọ không ít. Đa văn như tôn giả A Nan, trí huệ cỡ ngài Xá Lợi Phất cũng đều lắc đầu thúc thủ. Sau nửa năm dài cố gắng vô hiệu quả, Châu Lợi Bàn Đặc bị ông anh dẫn ra chỗ vắng nói nhỏ:
- Này chú! Chỗ tình thân với nhau, anh nói thật cho chú biết, chú nên hoàn tục là hơn. Công việc của một người xuất gia là học kinh và hành thiền. Một bài kệ vỏn vẹn có bốn câu mà chú còn thuộc không nổi thì nói chi đến chuyện tu với hành. Thôi chú hãy đem y bát cúng dường lại cho những vị mới phát tâm xuất gia trở về nhà ở với bố mẹ, sống đời cư sĩ, bố thí thiết trai, tu phúc để gieo duyên về sau vậy.
Châu Lợi Bàn Đặc òa lên khóc. Dù không đủ tài miệng lưỡi văn chương để diễn tả nỗi lòng mình như những người khác, chàng vẫn cảm thấy một nỗi niềm thống khổ đang tràn ngập tâm tư. Tuy không thuộc được kinh kệ, giới luật nhưng Châu Lợi Bàn Đặc vẫn mơ hồ cảm thấy có một cái gì rất thiêng liêng, tha thiết trong cuộc đời tu sĩ. Đã biết bao lần chàng đi kinh hành qua lại dưới những tàng cây rậm lá, nhìn các bạn đồng phạm hạnh đọc kinh hay tọa thiền một cách kính ngưỡng, khác khao. Phải chi mình thuộc được một bài kệ, chỉ bốn câu thôi để mình thực hành lời dạy của đức đạo sư… Và, dù không tài nào nhớ được lời dạy bảo của Ngài, chàng cũng đã im lặng lắng nghe với tất cả tấm lòng thành kính, trân trọng như đám bạn bè đồng trang lứa.
Thế mà, giờ đây, chàng lại sắp sửa từ giã nếp sống thanh tịnh này, cởi bỏ chiếc y vàng quen thuộc, những người bạn hiền hòa để trở về với nếp sống đa đoan của thế tục.
Không dám cãi lời anh, Châu Lợi Bàn Đặc lủi thủi đi ra khỏi tinh xá, vừa đi vừa khóc lóc rất bi thảm. Được một quãng, sực nhớ là mình chưa từ giã đức đạo sư, Châu Lợi bèn quay lạì, tìm đến hương thất của đức Phật.
Thấy chàng nước mắt ràn rụa, đức Phật hỏi:
- Này Châu Lợi, có chuyện gì vậy?
Châu Lợi tấm tức:
- Bạch Thế Tôn… ức… ức… con bị đuổi về nhà… ức… Không được tu nữa.. ức… ức…
- Con đã phạm lỗi gì?
- Dạ, bạch Thế Tôn! Con không thuộc được một bài kệ… dù con đã cố gắng hết sức, nên anh con bảo đi về nhà ở, đừng tu nữa…
- Nhưng lòng con thì còn muốn tiếp tục cuộc sống xuất gia phải không?
Châu Lợi Bàn Đặc khóc to lên, đức từ phụ đã nói đúng tâm nguyện của chàng. Ngài an ủi:
- Này Châu Lợi! Không thuộc nổi một bài kệ quả là một điều khá bất tiện cho việc tu học nhưng đó không phải là một lỗi lầm cố ý đến nổi phải hoàn tục. Nếu lòng con còn tha thiết muốn tiếp tục cuộc đờiphạm hạnh thì bấy nhiêu đó cũng đủ lắm rồi. Đây là một mảnh vải trắng, con hãy cầm lấy.
Châu Lợi Bàn Đặc ngơ ngác cầm chiếc khăn tay mà đức Phật vừa trao cho, Ngài dạy tiếp:- Mỗi ngày, con chỉ việc chăm chú theo dõi sự biến chuyển của chiếc khăn này… Chỉ có mỗi một việc đó thôi, con liệu có làm nổi không?
Châu Lợi Bàn Đặc hớn hở:
- Bạch Thế Tôn, được ạ!
- Tốt lắm! Nếu con kiên nhẫn làm theo lời Như Lai dạy, con sẽ đạt được kết quả tốt trong một ngày gần đây.
Từ đó, ai cũng ngạc nhiên khi thấy Châu Lợi Bàn Đặc thường ngồi im lặng trên một tảng đá nhìn đăm đăm vào một mảnh vải treo phía trước. Vì biết rõ ràng đó là một đề tài thiền quán do đức Phật đưa ra nên mọi người đều tôn trọng sự tu tập của thầy, không một người nào dám trêu chọc hỏi han.
Sáng chiều nối gót nhau, ngày qua tháng lại, sau những giờ đi bát về Châu Lợi Bàn Đặc vẫn theo thông lệ bất di bất dịch, đến cội cây quen thuộc ngồi nhìn mảnh vải đã ố màu thời gian. Sự thay đổi dần dà của chiếc khăn, từ màu trắng ngà sang đen đúa đã giúp chú khám phá ra sự vô thường của vạn hữu: “Chiếc khăn này, lúc đức đạo sư đưa cho ta còn trắng và mới. Vậy mà bây giờ đã nhớp nhúa, lấm lem. Và không bao lâu nữa, nó sẽ bị mục nát. Cũng thế, con người sanh ra, lớn lên, già nua rồi phải chết hệt như chiếc khăn tay này vậy.”
Và như lời tiên đoán của đức đạo sư, sau một thời gian tu tập với đề mục “khăn mouchoir” Châu Lợi Bàn Đặc đắc quả A La Hán trước sự kinh ngạc của các bạn đồng phạm hạnh. Đức đạo sư bèn xác nhận thành quả ấy và Ngài kết luận rằng: Bằng tất cả nhiệt tâm, tinh thành Châu Lợi Bàn Đặc đã tự tạo cho mình một hòn đảo mà không một lượn sóng tham ái nào hay tà kiến nào có thể làm chìm đắmđược. Đó là ý nghĩa câu pháp cú thứ 25:
“Bằng sự cố gắng, hăng hái không buông lung tự khắc chế lấy mình, người thiện trí đã tạo cho mình một hòn đảo mà không ngọn thủy triều nào có thể nhận chìm được.”
Einstein Giải Thích Thuyết Tương Đối
Có một người đến gặp Albert Einstein nhờ ông giải thích thuyết tương đối của ông một cách giản đơn và dễ hiểu. Einstein liền kể câu chuyện này:
“Tôi đi chơi với một người bạn bị mù từ thuở nhỏ. Tôi hỏi anh ta có muốn uống sửa không. Anh mù liền hỏi:
- Sữa là cái gì?
- Sữa là chất lỏng màu trắng.
- Chất lỏng thì tôi biết nhưng màu trắng là cái gì?
- Trắng là màu lông của con chim hạc ấy mà.
- Lông thì tôi biết nhưng con hạc là vật như thế nào?
- Hạc là con chim có cái cổ cong.
- Cổ thì tôi biết rồi nhưng cong là gì?
Tôi liền nắm cánh tay anh ta kéo thẳng ra và bảo: “Thế này là thẳng nhé.” Sau đó tôi gập cánh tay của anh lại và bảo: “Thế này là cong nhé. Anh hiểu chưa?”
Mặt anh mù sáng bừng lên, anh ta gật đầu lia lịa:
- A… Thế thì tôi hiểu sữa là gì rồi!
Thuyết tương đối của tôi cũng tương tự như vậy.
A Xà Thế (Ajatasattu)
Vua Bình Sa (Bimbisara) là một anh quân trị vì vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha) đóng đô tại Vương Xá. Ngài lên ngôi lúc vừa 15 tuổi.
Khi gặp thái tử Tất Đạt Đa đi tìm đạo, vua Bình Sa rất lấy làm cảm kích trước tướng mạo uy nghiêmthanh tú của ngài, nên đã cho vời đến hầu chuyện. Sau đó ngỏ lời nhường phân nửa lãnh thổ Magadha cho thái tử và bị ngài từ chối. Vua Bình Sa đã khẩn khoản xin thái tử hứa cho rằng sau ngày thành đạosẽ ghé thành Vương Xá để hóa độ cho vua. Thái tử đã chấp nhận lời thỉnh cầu này nên khoảng một năm sau ngày giác ngộ, đức đạo sư cùng chúng đệ tử đến thành Vương Xá.
Cuộc tái ngộ này khiến nhà vua rất hoan hỷ, sau thời thuyết giảng của đức đạo sư, vua Bình Sa đắc sơ quả Tu Đà Hoàn, xin quy y tam bảo dâng khuôn viên Trúc Lâm cho Phật và chúng tăng làm ngôi tinh xáđầu tiên.
Sau ngày quy y, vua Bình Sa sống một cuộc đời đạo hạnh gương mẫu. Đức vua thọ bát quan trai giớivào những ngày lục trai rất đều đặn. Ngài cũng đã khéo léo hướng dẫn một hoàng phi tên là Khermà xuất gia, đắc quả A La Hán và trở thành một trong những người lãnh đạo ni đoàn.
Vua Bình Sa có một hoàng nam duy nhất là A Xà Thế. Sử sách còn ghi rằng lúc tuổi đã khá cao mà chưa có con nối dõi, nhà vua rất buồn rầu, và sau không biết bao nhiêu lễ cầu tự tốn kém lẫn phiền toái, hoàng tử A Xà Thế mới chào đời trong sự vui mừng tột độ của vua Bình Sa.
Hoàng tử A Xà Thế là tục gia đệ tử của Đề Bà Đạt Đa. Sau khi chứng kiến một cuộc biểu diễn thần thông của thầy, hoàng tử bèn xây cất một tinh xá thật lộng lẫy để cúng dường Ngài cùng hàng môn đệtùy tùng. Do sự xúi giục của Đề Bà Đạt Đa, hoàng tử âm mưu giết cha để đoạt ngôi. Công việc bị bại lộ, vua Bình Sa không nỡ giết đứa con yêu quý độc nhất, đành ân xá và còn làm lễ chánh thức thoái vịnhường ngôi cho A Xà Thế vì thấy chàng hoàng tử quá khát khao ngai vàng.
Đáp lại “tấm lòng bi mẫn của cha”, vừa lên ngôi xong A Xà Thế liền hạ ngục cha và truyền lệnh bỏ đói cho đến chết.
Trước nghịch cảnh thương tâm ấy, vua Bình Sa vẫn thản nhiên chịu đựng không một lời than van hay oán trách con. Thấy cha vẫn vui tươi bình thản A Xà Thế càng điên tiết, ông cho người đến giết cha bằng một hình phạt vô cùng dã man: lấy dao gọt da chân, xát dầu và muối vào và hơ lên lửa cho đếnchết.
Thấy người cầm dao đến cửa ngục, vua Bình Sa vô cùng mừng rỡ, ngỡ là A Xà Thế đã ăn năn cho người thợ cạo râu và rước mình về hoàng cung. Ngờ đâu đức vua đã chịu một cực hình vô cùng đau đớn trước khi chết.
Trong khi vua Bình Sa đang giãy giụa trong ngục tù thì A Xà Thế được tin đứa con trai đầu lòng của ông chào đời. Tình phụ tử lần đầu tiên chớm nở khiến A Xà Thế hân hoan khôn xiết. Ông vội vã tìm mẹ báo tin mừng và tâm sự:
- Thưa mẫu hậu, vừa được tin hoàng nhi chào đời, con liền cảm thấy lòng dấy lên một niềm yêu thươngdạt dào, một cảm xúc mà xưa nay con chưa từng biết đến. Con yêu thương hoàng nhi còn hơn chính bản thân con nữa. Không biết ngày con còn bé, phụ hoàng có yêu con không hở mẹ?
Hoàng hậu Vi Đề Hy nghẹn ngào đáp:
- Sao con lại hỏi mẹ điều ấy? Mẹ chắc rằng trên đời này không tìm đâu được người cha từ mẫn như là phụ hoàng con đâu. Lúc vừa được tin mẹ cấn thai, cha con đã vui mừng đến mất ăn mất ngủ. Lúc ấybỗng dưng mẹ thèm nếm một vài giọt máu của cha con nhưng không dám nói ra. Thấy mẹ càng xanh xao gầy yếu, cha con gạn hỏi, mẹ đành thú thật. Cha con bật cười vui vẻ lấy dao cắt tay cho mẹ nếm máu. Các nhà tiên tri đoán rằng do điềm ấy con sẽ là kẻ thù của phụ hoàng, vì thế mà con được đặt là A Xà Thế, kẻ thù mai sau. Khi được nghe lời tiên đoán ấy, mẹ có ý định giết con ngay khi con còn là một bào thai, nhưng cha con đã hết lời ngăn cản. Và, con đã chào đời trong niềm vui vô hạn của phụ hoàng, trong sự lo âu hãi hùng của mẹ.
A Xà Thế sững sờ, ngồi ngây người ra. Hoàng hậu Vi Đề Hy lại tiếp tục kể lể:
- Thuở nhỏ, có lần con bị một cái ung nhọt ở móng tay. Nghe tiếng con gào khóc, phụ hoàng vội vã bãi triều, vào nội cung ôm lấy con, ngậm ngón tay đau của con vào miệng, con mới nín khóc và ngủ yên. Cái nhọn thình lình vỡ ra, máu mủ tuôn chảy. Cha con đã nuốt cả máu lẫn mủ sợ làm đau và kinh động đến giấc ngủ của con.
A Xà Thế đứng bật dậy, kêu lên thất thanh:
- Hãy thả người cha yêu quý của trẫm ra! Ngay lập tức, nhanh lên!
Một tên ngự lâm quân liền quỳ xuống thưa:
- Tâu bệ hạ! Thượng hoàng vừa mệnh chung.
A Xà Thế buông mình xuống ghế, vặn hai bàn tay tuyệt vọng. Khi ông bắt đầu làm cha và hiểu thế nào là tình phụ tử thì người cha bi mẫn của ông không còn nữa. Người đã chết một cách vô cùng đau đớndo chính lệnh của ông.
Từ đó, A Xà Thế ưu sầu vô hạn, lúc nào ông cũng bị tội lỗi dày vò ám ảnh nên chẳng bao lâu lâm trọng bệnh, toàn thân đầy ghẻ lở. Các ngự y đều bó tay. A Xà Thế tuyệt vọng, than với mẹ:
- Thưa mẫu hậu, có lẽ thân bệnh của con là do tội giết cha mà nên Và không chắc bao lâu nữa, con sẽ rơi vào hỏa ngục.
Hay tin nhà vua lâm trọng bệnh, các đình thần tụ họp, tìm đủ phương giúp đức vua của họ vơi sầu. Nhưng A Xà Thế lúc nào cũng rầu rĩ:
- Trẫm nay cả thân lẫn tâm đều đau khổ vô hạn. Phụ hoàng hiền đức vô tội mà trẫm lại đành lòng gia hại. Trẫm từng nghe nói rằng giết cha là một trong năm tội đại nghịch, thế nào cũng rơi vào địa ngục vô gián. Có lẽ thân bệnh của trẫm mới là hoa báo, địa ngục mới là quả báo thật sự.
Thấy nhà vua quá bi lụy và sầu não, các quan đại thần đều an ủi và lần lượt hiến kế. Đại thần Nguyệt Ứng thưa:
- Tâu bệ hạ! Như người ưa ngủ nghỉ, càng ngủ nghỉ thì càng mệt mỏi. Nếu người nào bảo với bệ hạ giết cha bị đọa địa ngục thì đã có ai tận mắt thấy địa ngục chưa? Thần có biết một tôn sư tên là Phú Lâu NaCa Diếp (Purassapa) thần thông quảng đại, trí tuệ siêu quần. Ngài thường tuyên thuyết đạo vô thượngrằng hoàn toàn không có nghiệp báo, họa phúc, tất cả những việc khổ vui lành dữ đều do ngẫu nhiênmà có. Nếu bệ hạ đến gặp Ngài thì chắc chắn sẽ vơi sầu ngay.
- Nếu đúng như lời khanh nói, ta sẽ đến quy y với tôn sư.
Đại thần Tạng Đức quỳ xuống tâu:
- Muôn tâu thánh thượng! Xin ngài chớ quá sầu muộn giết cha so với pháp sa môn là một tội nặng nhưng theo vương pháp thì hoàn toàn vô tội như trùng Ca La phải cắn thủng bụng mẹ để chui ra vậy. Nhằm bảo vệ ngai vàng đức vua có quyền giết cha mẹ anh em hay bất cứ ai đều không phải tội. Chỉ có hàng sa môn mới không được phép giết thậm chí đến con ong cái kiến. Tôn sư của hạ thần là đức Mạt già lê câu xa ly tử (Makkali Gosala) là một bậc đại thánh, đại y vương.. có lòng từ bi thươngchúng sanh như con đẻ. Ngài thường dạy rằng các loài hữu tình đều do 7 nguyên tố: đất, nước, gió, lửa, khổ, vui và thọ mạng hòa hợp thành. Bảy nguyên tố này không thể bị hủy hoại nên hoàn toàn không có người giết và kẻ bị giết.
Tôn sư thường thuyết pháp như thế và ai gặp Ngài cũng đều được cứu rỗi cả.
- Này Tạng Đức, nếu đúng như lời khanh nói, trẫm sẽ đến quy y với tôn sư.
Đại thần Thiệt Đức lại thưa:
- Muôn tâu bệ hạ! Xin ngài chớ quá ưu sầu. Nếu tiên vương là sa môn thì bệ hạ giết người là có tội. Tôn sư của hạ thần là đức San Xà dạ Tỳ la chí tử (Sanjaya Belathi putta) là một bậc đại thánh thần thôngquảng đại, oai đức cao cả khôn lường. Ngài thường dạy rằng: Hàng vua chúa có quyền năng tự tại, tùy ý làm gì cũng được. Chúng sanh chết đi thì đầu thai lại liền nên không thể gọi là giết. Hơn nữa mọi người sinh ra đều có số mạng định sẵn, không ai có thể trốn thoát được. Chính tiên vương đã có số bị bệ hạ giết thì dù có chạy đàng trời cũng không tránh khỏi. Định mạng đã an bài như thế… thì bệ hạ nào có lỗi gì?
- Hay lắm! Này Thiệt Đức, trẫm sẽ đến thọ giáo với tôn sư.
Đại thần Tất Tri Nghĩa lại tâu:
- Muôn tâu thánh thượng! Xin ngài chớ quá buồn lo. Thần đã từng nghe rằng: thời quá khứ có các vì vua La Ma, Mạt Đề, Tỳ Lâu Chơn… đều giết cha để lên ngôi, mà chẳng ông vua nào sinh lòng buồn rầuân hận cả, dầu thiên hạ bảo rằng có địa ngục, nhưng đó chỉ là lời tuyên truyền mị hoặc không có chứng cớ. Bậc tôn sư của hạ thần là đại sĩ A Kỳ Đa Xúy Xa khâm bà la (Ajirta Kesakamli) là một đấng toàn trivạn năng. Ngài dạy rằng: “Hoặc giết hay tha, trộm cướp hay bố thí dâm dục hay phạm hạnh không thành vấn đề. Thiên đường địa ngục đều không có. Con người chẳng qua là một tổ hợp vật chất, chết là hết. Vì thế mà còn sống được ngày nào, chúng ta nên tận hưởng ngày ấy. Nếu bệ hạ đến gặp tôn sư thì hạ thần tin rằng bệ hạ sẽ hết lo ngay lập tức.
- Hay lắm, này Tất Tri Nghĩa! Nếu đúng như lời khanh nói, trẫm sẽ quy y với tôn sư.
Đại thần Kiết Đắc tâu:
- Muôn tâu, ai dám phỉnh gạt với bệ hạ rằng có địa ngục? Kẻ ấy đáng tru di để làm gương cho bọn láo khoét. Bà tẩu tiên nhơn có dạy: “Người giết dê sẽ được quả vui cõi trời.” Bệ hạ nhờ phước giết tiên vương, nên hiện đời được làm vua tôn quý tột bực, lúc mệnh chung thế nào cũng sinh thiên. Lại như trồng dưa được dưa, gieo đậu được đậu, giết người được quả báo cõi người, phá địa ngục mới rơi vào cõi ngục. Tôn sư của hạ thần là đức Ca La cưu đa ca chiên diên (Pakudha Kaccayàna) có dạy rằng: “Nếu người sát hại chúng sanh mà lòng không ăn năn hổ thẹn thì chẳng chịu quả báo, ví như hư khôngchẳng dính bụi nước. Trái lại, nếu cứ ăn năn ray rứt mãi thì sẽ bị rơi vào cảnh khổ, như nước ngấm vào đất vậy. Tất cả đều do trời Đại tự tại tạo ra, nhất cử nhất động của ta đều do ý ngài, chúng ta chỉ vâng theo thiên ý nên không phải chịu một trách nhiệm gì về hành vi của mình hết.” Nếu bệ hạ muốn rõ hơn thì nên đến gặp tôn sư.
- Hay lắm, này Kiết Đắc! Nếu đúng như lời khanh nói, trẫm sẽ đến gặp tôn sư.
Đại thần Vô Sở Úy tâu:
- Muôn tâu thánh thượng! Xin ngài chớ quá bận tâm về những chuyện thật nhỏ nhặt như thế. Hàng vua chúa có toàn quyền giết bất cứ ai, ngay cả cha mẹ mình để bảo vệ ngai vàng và chiêu an bá tánh mà không có tội lỗi chi cả. Huống chi tiên vương chẳng chịu tôn thờ Bà la môn mà lại đi cung phụng hàng sa môn đầu trọc là một đoàn thể tạp nhạp, du thủ du thực, chứa chấp cả bọn cùng đinh nô lệ trong đó nữa. Thần trộm nghĩ, khi giết tiên vương, bệ hạ đã lập nên một kỳ công vĩ đại tái dựng lại trật tự xã hộitheo truyền thống cổ truyền của tổ tiên ta từ xưa đến giờ. Đấng tôn sư của hạ thần là Ni Kiền Nhã Đề Tử (Nigandha Nataphutta) một đấng chí tôn thần thông bạt tụy, trí tuệ siêu quần, có phán rằng: “Tất cả chúng sanh lần lượt trải qua bốn muôn kiếp, bất luận thiện hay ác, trí hay ngu… đều được giải thoátcả. Nếu bệ hạ đến yết kiến ngài, bệ hạ sẽ thấy tội lỗi tiêu ngay.
- Hay lắm, này Vô Sở Úy! Nếu đúng như lời khanh nói, trẫm sẽ đến quy y với tôn sư.
Theo lời mách bảo của đình thần, vua A Xà Thế lần lượt đến yết kiến các vị đạo sĩ thời danh nhưng không một ai có thể làm cho nhà vua vơi sầu. Nỗi ân hận tiếc thương người cha nhân hậu vẫn canh cánh bên lòng.
A Xà Thế có một viên ngự y rất là thân tín tên là Kỳ Bà. Thấy bệnh tình của nhà vua ngày càng trầm trọng, Kỳ Bà khuyên nhà vua nên yết kiến đức Phật, khi ấy đang ngự tại vườn xoài của Kỳ Bà. A Xà Thếbăn khuăn:
- Này Kỳ Bà! Khanh há không nhớ rằng trước kia có một dạo ta từng thân cận với sa môn Đề Bà Đạt Đa, tùy hỷ cho ông mượn voi say để giết hại sa môn Cồ Đàm nhưng bất thành… hay sao? Ta e rằng ông ta còn hiềm chuyện cũ, đời nào chịu tiếp ta?
- Tâu bệ hạ, thần xin lấy cái đầu của hạ thần để cam đoan với bệ hạ rằng đức đạo sư sẽ không thù oángì bệ hạ cả… mà ngược lại…
- Khoan, khoan! Hãy để cho trẫm nói hết cái đã! Sa môn Cồ Đàm trước kia là bạn cố tri của phụ hoàng ai ai cũng biết. Trẫm e rằng vì tình thâm xưa, ổng sẽ nhục mạ và bêu rếu trẫm trước một đám đông hội chúng không biết chừng!
- Muôn tâu! Những điều lo lắng của bệ hạ không phải là hoàn toàn vô căn cứ, nhưng đó là vì bệ hạ chưa từng gặp đức đạo sư. Ngài là một bực giác ngộ phải có một nhân cách phi thường thế nào mới có thể chinh phục được lòng kính tin của ba vị giáo sĩ bái hỏa lừng danh Ca Diếp, những bà la môn thông thái cỡ Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên… Chí đến hạng cùng hung cực ác như Ương Quật Ma La mà Ngài còn hóa độ cho thành một bậc A La Hán…
- Ương Quật Ma La nào? Có phải tên du đãng chuyên môn giết người rồi cắt lấy ngón tay đeo quanh cổ đó chăng?
- Muôn tâu, chính hắn! Một kẻ từng khuấy động cả nước Kosala… Sau khi giết hàng nghìn nhân mạng hắn đã được đức đạo sư hóa độ, đi xuất gia và đặng thánh quả rồi…
- Này Kỳ Bà! Đó là những điều khanh nghe thiên hạ đồn đãi hay là chính khanh được mục kích?
- Tâu bệ hạ! Trong những lúc rỗi rảnh, ngu thần thường lui tới các tinh xá để yết kiến đức đạo sư và khám bệnh cho chư tăng. Chính mắt hạ thần đã trông thấy và sờ vào người vị La Hán tên Ương Quật Ma La.
- Thế à!
- Muôn tâu! Nếu một kẻ như Ương Quật Ma La còn được hóa độ và trở thành một vị thánh thì hàng anh tài như bệ hạ đâu lẽ nào đức đạo sư lại từ chối? Xin bệ hạ đừng ngần ngại nữa. Thần có trộm nghe rằng được gặp chư Phật xuất thế là một điều hy hữu “thiên tải nhất thì” mới được. Huống chi, thuở sinh tiền tiên vương rất quý kính Ngài. Nếu bệ hạ còn chút tình tưởng nhớ đến tiên vương thì cúi xin bệ hạ hãy xa giá đi với thần ngay lập tức…
- Kỳ Bà! Khanh có điên không? Đi ngay bây giờ đang đêm như thế này à?
- Muôn tâu! Du hành ban đêm quả là một điều bất tiện thật đấy nhưng hạ thần trộm nghĩ rằng thần chết không bao giờ chịu gia hạn, bệnh tình của bệ hạ mỗi ngày một thêm nguy kịch. Hơn nữa, sáng mai sẽ có đình thần bàn ra tán vào mà hạ thần thì chỉ có một cái lưỡi thôi, làm sao có thể địch nổi hàng trăm cái miệng dẻo dai của họ?
- Này Kỳ Bà! Đức đạo sư ra sao thì ta chưa rõ nhưng tấm lòng tha thiết của khanh làm ta cảm động. Khanh hãy gọi quản tượng chuẩn bị voi cho ta lên đường xem!
Rồi A Xà Thế, ngự y Kỳ Bà cùng một số quan lớn quan nhỏ và hàng tá lính ngự lâm quân lên đường đi đến vườn xoài của Kỳ Bà.
Sắp đến cổng vườn, vua A Xà Thế bỗng nhiên biến sắc, tuốt gươm khỏi vỏ, quắc mắt nhìn Kỳ Bà gằn giọng:
- Này Kỳ Bà! Khanh không mưu phản ta chứ?
Kỳ Bà kinh ngạc lắp bắp nói:
- Muôn tâu! Vì sao thánh thượng lại nghi ngờ lòng dạ của hạ thần?
- Kỳ Bà! Ta thường nghe nói rằng đức đạo sư mỗi khi ở đâu thường có hàng nghìn môn đệ doanh vây… Vậy mà, nơi đây lại im lặng như tờ, thì chẳng phải ngươi đưa ta vào một ổ phục kích là gì?
- Muôn tâu! Đức đạo sư hiện đang cư ngụ nơi đây cùng 1250 vị tỳ kheo tùy tùng, nhưng các vị ấy thường rất ít nói, đang tọa thiền nên khung cảnh mới tịch tĩnh như thế ạ…
- Này Kỳ Bà! Chỉ cần vài ba tu sĩ luận đạo cộng thêm dăm tiếng vịt kêu nữa là đủ tạo thành một cái chợ, huống chi hàng nghìn người mà lại không một tiếng ho hen tằng hắng?
- Muôn tâu! Bệ hạ tuy không phải là cha đẻ của hạ thần nhưng chính là người cứu vớt và nuôi dưỡngngu thần từ tấm bé. Đời thần chỉ có hai người cha khả kính… Đó là bệ hạ và đức đạo sư.
- Kỳ Bà! Ta cũng tin tưởng nơi tấm lòng trung hiếu của khanh lắm nên mới ra đi trong đêm hôm tăm tối như thế này. Nhưng đã đến chưa?
- Tâu bệ hạ! Đã đến lúc thỉnh bệ hạ xuống xe để vào tinh xá rồi.
Vua A Xà Thế liền “hạ tượng,” đưa mắt nhìn quanh. Qua các tàng cây rậm lá, nhà vua trông thấy thấp thoáng màu áo vàng của chư tăng đang ngồi tĩnh tọa trong ánh trăng tỏa sáng dịu dàng. Màu trăng huyền ảo phủ lên những thân hình gày gò, ngồi nghiêm trang trên các tảng đá, thảm cỏ hoặc bên một cội cây… gây nên một ấn tượng kỳ diệu trong lòng vị vua sầu muộn. Nhà vua vươn vai, hít thở làn không khí an lành, ngao ngạt hương hoa, lẩm bẩm:
- Ước gì hoàng nhi Ưu Đà Di Bạt Kỳ (Udàyi Bhaddha) của ta cũng có được sự trầm tĩnh bình an như các sa môn này.
Kỳ Bà đưa tay chỉ về phía hương thất của đức đạo sư, thì thầm:
- Muôn tâu! Trong gian thất nhỏ thấp thoáng ánh đèn, giữa các thầy tỳ kheo im lặng ngồi vây quanh, chính là hình bóng khả kính của đức đạo sư!
Với sự hướng dẫn của quan ngự y, A Xà Thế tiến vào hương thất của Phật, đảnh lễ Ngài, vái chào chúng tỳ kheo và lui ngồi một bên.
- Này đại vương! Đức đạo sư dịu dàng cất tiếng. A Xà Thế dáo dác nhìn quanh…
- Vì nguyên do nào mà đại vương thân hành đến đây trong đêm tối như thế này?
- Bạch Thế Tôn! Con chính là A Xà Thế, vua nước Magadha. Con đang trị vì một quốc gia trù phú với những đình thần tuấn kiệt, các hoàng phi diễm lệ, bao cung điện nguy nga. Nhưng tất cả những thứ ấy đều trở thành vô nghĩa đối với con, vì con lỡ tay giết hại người cha bi mẫn của mình. Hiện giờ thân xác con mắc phải một chứng bệnh nan y, đêm ngày đau đớn khôn tả, lòng con lúc nào cũng bị ray rứt về cái chết thê thảm của phụ hoàng. Con kinh sợ khi nghĩ rằng lúc mệnh chung con sẽ bị rơi vào hỏa ngục…
- Đại vương cứ tiếp tục, Như Lai đang lắng nghe!
- Bạch Thế Tôn! Theo lời mách bảo của đình thần, trước khi đến đây, con đã tham vấn sáu vị tôn sư, lãnh tụ của các giáo phái thời danh trong nước, nhưng chưa có ai làm cho con vơi sầu…
- Ra thế!
- Vậy mà, khi vừa đặt chân đến đây, khung cảnh tịch mịch cùng hình bóng trầm lặng của chư tăng khiến lòng con nhẹ nhõm, con cảm thấy như mình đang sống lại thời thơ dại, lúc chưa bị những khát vọng điên cuồng dày vò xâu xé. Con liền khởi lên ước muốn rằng, giá mà hoàng nhi Ưu Đà Di của con cũng có được sự bình an của chư vị sa môn nơi đây…
- Đại vương cứ nói hết những gì mà đại vương thấy là cần thiết!
- Bạch Thế Tôn! Trước khi đến đây con lo sợ rằng vì những lỗi lầm cũ, Thế Tôn sẽ không chịu cho con tiếp kiến, nên lúc nghe Thế Tôn gọi hai tiếng “đại vương” con đã dáo dác nhìn quanh để xem có phải đích thực là đức Thế Tôn gọi con không? Và quả đúng như những lời tán thán của quan ngự y, Thế Tônquả là một bậc tôn sư vĩ đại, khả kính nhất trong các giáo chủ thời danh mà con từng diện kiến!
- Này đại vương! Hãy trân trọng! Chớ vội tin tưởng vào những gì do lời đồn đãi, những gì do người mình thương mến tin cẩn nói lại. Vì một niềm tin được xây dựng trên những cơ sở ấy sẽ không còn tồn tạiđược lâu dài. Chỉ khi nào một điều gì, do chính đại vương đích thân nghe, suy gẫm và thực hành, thấy có kết quả thiết thực mà không gây tổn hại cho ai, thì đến lúc ấy, đại vương có thể tuyên bố rằng đây là một giáo pháp chân chính được nói ra từ một vị đạo sư sáng suốt chân thật.
- Bạch Thế Tôn! Những lời Thế Tôn vừa nói cũng đã đủ gây một niềm kính tin cho con. Từ trước khi gặp bất cứ vị đạo sư nào, con cũng đều được họ hoặc hàng môn đệ không đủ lời diễn tả sự cao quý khôn lường của giáo phái mình. Họ thường vạch ra một cảnh thiên đường huy hoàng dành riêng cho hàng môn đệ kính tin và những hỏa ngục hãi hùng để đày những kẻ chẳng tin. Và, nếu con ngỏ ý muốn quy yvới vị đạo sư nào thì chúng đệ tử của vị ấy đều hớn hở, cơ hồ muốn đặt con lên một chiếc kiệu vàng để công kênh đi khắp thành phố. Duy có Thế Tôn là người độc nhất khuyên con không nên đặt niềm tin đi trước trí tuệ, và chúng tỳ kheo nơi đây đều bình thản nghe những lời tán dương của con. Ước mongsao con có thể để lại hoàng nhi sự thanh thản ấy hơn là chiếc ngai vàng được gây dựng bằng xương máu và nước mắt.
- Này đại vương! Có phải mục đích chính của cuộc viếng thăm này là để giải tỏa nỗi phiền muộn của đại vương về cái chết của phụ hoàng không?
- Bạch Thế Tôn! Chính thế. Từ ngày phụ hoàng thác đi, lòng con chưa hề có một phút giây thanh thản. Bất cứ lúc nào và nơi đâu, con cũng nghe văng vẳng tiếng rên la tha thiết của người. Lúc đang ngồi con muốn đứng dậy, lúc con đứng con lại muốn đi, khi đang đi lại muốn nằm và lúc nằm thì con lại muốn ngồi bật dậy.
- Này đại vương! Có hai hạng người có thể đạt được hạnh phúc chân thật! Hạng không gây tội và hạng đã lầm lỡ rồi sau lại biết ăn năn, không tái phạm. Cả hai hạng đều có đầy đủ khả năng giác ngộ như nhau.
- Nhưng… con đã phạm một trong năm tội đại nghịch…
- Đành rằng nhân quả không sai, hạt giống đắng không thể nào sanh trái ngọt. Nhưng nếu cho rằng ai cũng phải chịu những khổ báo do mình đã lầm lỡ gây nên thì có lẽ trên thế gian này không có một ai đặng thánh quả được.
- Bạch Thế Tôn, làm sao con có thể ăn năn cải hối được một khi phụ hoàng đã mất?
- Này đại vương! Người chết không thể hồi sinh được bằng nước mắt của thân nhân. Nếu đại vương cứ ngồi than khóc về một lỗi lầm trong quá khứ thì không ích lợi gì. Chi bằng đại vương tận dụng hết chuỗi ngày còn lại, từ bỏ phi pháp, giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, dùng chánh pháp trị dân thì cái chết của tiên vương sẽ trở thành một tiếng chuông cảnh tỉnh, đánh dấu một ngày mới, một cơ hội tốt giúp đại vương chuyển hóa một triều đại được xây dựng bằng máu lệ và hận thù thành một triều đại anh minh và nhân ái.
- Bạch Thế Tôn! Con đã hiểu. Từ đây con xin trọn đời quy y tam bảo, dùng chánh pháp để chiêu an bá tánh. Con sẽ thương yêu và chăm sóc thần dân như chính hoàng nhi của mình. Riêng phần tội lỗi gây ra, con xin can đảm chấp nhận lấy hậu quả. Đêm cũng đã khuya, con xin được phép bái từ.
Sau ngày gặp đức đạo sư, bệnh tình của A Xà Thế ngày một thuyên giảm. Cả triều đình lẫn nội cungđều ghi nhận có một sự thay đổi dị thường nơi nhà vua hung bạo cũ. Tuy những tập khí vương giả độc đoán cũ chưa gột sạch hẳn, nhưng đức vua cũng đã tỏ ra khoan hồng, bớt khe khắt hơn. Để tránh những điều đáng tiếc có thể xảy ra, mỗi khi sắp quyết định một việc hệ trọng, A Xà Thế đều cho người đến thỉnh ý Phật, chẳng hạn như lúc định đêm binh đánh nước cộng hòa Bạt Kỳ, nhà vua đã sai đại thần Vũ Xá đến trình Phật. Đức đạo sư nhân dịp ấy đã gián tiếp ngăn cản đức vua bằng cách nêu ra 7 điều kiện khiến cho quốc gia hùng cường tương ứng với 7 yếu tố giúp tăng đoàn thanh tịnh, trong thời thuyết pháp thường nhật. Đó là:
Vua quan và nhân dân thường tụ họp với nhau trong tinh thần đoàn kế.
Đoàn kết để làm tròn trách nhiệm
Nhà cầm quyền không ban hành những luật lệ mới, trái với những đạo luật cổ truyền còn thích hợp.
Kính trọng những bậc trưởng thượng.
Không quyến rũ và cưỡng ép phụ nữ.
Tôn trọng cái mỹ tục cổ truyền.
Ủng hộ các sa môn chân chánh.
Nhận được thâm ý của đức đạo sư, A Xà Thế truyền lệnh bãi binh ngay. Từ dạo đó, thay vì mở các cuộc binh đao với các nước láng giềng, đại vương A Xà Thế dốc hết tâm lực ủng hộ chánh pháp. Đức vua trở thành một Phật tử thuần thành không kém vua Bình Sa thuở trước.
Khi được tin đạo sư nhập niết bàn, đại vương A Xà Thế đã khóc than không ngớt. Nhà vua thân hànhđứng ra trong nom việc phân chia xá lợi Phật và cũng nhờ sự bảo trợ của nhà vua, tôn giả Ca Diếp đã mở một đại hội triệu tập chư vị thánh tăng tại hang Kỳ Xà Quật để kết tập lại những lời huấn thị của đức đạo sư trong suốt 49 năm hoằng pháp.
Các sử gia còn ghi nhận rằng, dưới triều đại của quốc vương A Xà Thế, nước Magadha rất trù phú hùng mạnh, mở đầu cho việc thống nhất lãnh thổ Ấn Độ về sau.
Ca Lưu Đà Di
Ưu Đà Di (Udàyi) là một viên đại thần rất được sủng ái của đức vua Tịnh Phạn, ông có biệt tài tổ chức các vấn đề kinh tế, hành chánh và ngoại giao… nhưng cũng có một tật khá lớn là vô cùng đắm nguyệt say hoa. Chính ông là người đã hiến kế cho vua Tịnh Phạn lập tam cung lục viện, tuyển mộ cung phi, đem sợ tóc mỹ nhân để cột chân hoàng tử Tất Đạt Đa dạo nọ.
Khi được tin con mình đã thành đạo, đang đi bố giáo nhiều nơi mà không chịu về thăm nhà, vua Tịnh Phạn vô cùng nôn nóng. Liên tiếp, ngài phái liền 9 vị cận thần thân tín đi mời đức đạo sư về thành Ca Tỳ La Vệ. Đáp lại sự chờ mong của đức vua, sau khi gặp Phật và nghe pháp, 9 vị sứ giả đều tỉnh ngộ, quên phứt đi sứ mệng của mình, xin cạo tóc sống đời sa môn và lần lượt đắc quả cả. Lần thứ 10, đại thần Ưu Đà Di phụng mệnh ra đi thỉnh đức đạo sư trở về thăm quê cũ. Dù rất lấy làm cảm động khi nghe những lời giảng dạy của đức Thế Tôn, Ưu Đà Di vẫn trở về phò vua giúp nước như cũ.
Mãi đến khi vua Tịnh Phạn mất, Ưu Đà Di mới từ quan, bỏ lại hàng chục tòa dinh thự nguy nga cùng hằng trăm thê thiếp lộng lẫy, cạo tóc lẫn râu, sống đời khất sĩ. Để ghi dấu lần thay đổi vĩ đại này, ông đổi tên là Ca Lưu Đà Di (Kàludàyi).
Tuy đã đổi thức ăn, hình thức cùng nếp sinh hoạt hẳn hoi nhưng các cố tật của Ca Lưu Đà Di vẫn còn. Vì thế, thầy đã gây ra khá nhiều rắc rối cho tăng đoàn, đức đạo sư cũng như bản thân mình.
Vừa gia nhập tăng đoàn, Ca Lưu Đà Di đến gặp đức đạo sư, than phiền rằng diện tích tấm tọa cụ do ngài hạn định cho chư tăng thật là khiêm tốn so với thân hình đồ sộ của sư. Đức Phật liền chế luật, cho phép sư được mở rộng kích thước tấm nệm ngồi, mỗi bề thêm nữa tất nữa.
Có được tấm tọa cụ ưng ý, Ca Lưu Đà Di vẫn chưa thể tọa thiền được vì tiếng quạ kêu ồn ào làm tâm tư xao động. Thế là trong lúc các bạn đồng phạm hạnh đang ngồi thiền định, Ca Lưu Đà Di liền đi chẻ tre, chuốc cung tên để bắn quạ. Sau giờ tĩnh tọa, các thầy tỳ kheo đi kinh hành, ngạc nhiên khi thấy xác quạ chết nằm đầy vườn, mới hay cớ sự. Chuyện đến tai Phật, Ca Lưu Đà Di bị khiển trách một trận nên thân. Chưa hết, một hôm, trên đường vào thành Xá Vệ, đức đạo sư bắt gặp một sàng tòa cao ngất nghểu, đặt giữa ngã ba đường và Ca Lưu Đà Di đang nằm đong đưa trên đó. Đương sự liền được mời xuống và đức đạo sư phải chế thêm một giới cấm nữa: “Không được giăng võng cao quá đầu người.”
Nhờ sự hướng dẫn của đức đạo sư và các bạn đồng phạm hạnh. Ca Lưu Đà Di gột rửa dần dần những tập khí quan liêu, vương giả, duy có một điều gây rắc rối không ít cho sư cùng tăng đoàn là sư khó lòng tự chủ khi thấy bóng mỹ nhân.
Một hôm đang ngồi trong tịnh thất, chợt thấy một thiếu nữ diễm lệ đi ngang, quên phứt là mình đã xuất gia, Ca Lưu Đà Di liền tuột khỏi giường thiền, chạy ra chận đường người đẹp. Chuyện đến tai Phật, sư bị la rầy nặng nề và thề chừa hẳn. Lời thề này chỉ giữ được có một nửa. Lần khác, Ca Lưu Đà Di không chạy ra chận đường người đẹp nhưng ngồi trong tịnh thất, sư không thể nín được dăm lời trêu chọc. Kết quả là Ca Lưu Đà Di phủ phục dưới chân Phật, phát nguyện sẽ không bao giờ buông lời chọc ghẹo người đẹp nữa. Nhưng xui xẻo cho sư, ngay ngày hôm sau, có nhiều hoàng phi và cung nữ của vua Bình Sa, trên đường lễ Phật, lại đi ngang qua tịnh thất của sư. Đương sự liền khua chìa khóa “lẻng kẻng” để gây sự chú ý của mỹ nhân. Để trừ hậu hoạn, đức đạo sư cho phép Ca Lưu Đà Di được dời tịnh thất ra cuối vườn để… tránh cảnh.
Chuyện rắc rối lại xảy ra với nhà sư đa tình này trên đường đi khất thực. Người ta bắt gặp sư ôm bát đứng bất động trước nhà “người đẹp.” Nghe chuyện đức Phật bèn ra lệnh cấm: “Tỳ kheo khất thực xong phải đi ngay, không được nấn ná trước nhà người ta.” Điều luật này được Ca Lưu Đà Di hết sức tôn trọng: sư chỉ đứng ngoài đường lộ dòm vào thôi. Có người mách Phật, Ngài lập tức chế giới, Ca Lưu Đà Di bèn ngồi trên ngạch cửa. Phật cấm ngồi trên ngạch cửa, sư bèn chui vào kẹt cửa của gia chủ… Và, rất nhiều phen, sư bị thiên hạ vây đánh, phải chạy thoát thân, vất hết cả y cùng bát…
Tai tiếng của Ca Lưu Đà Di tới tấp bay đến hương thất của Phật, sau những lời khiển trách, Ngài đích thân giáo hóa sư, cấm không được rời xa Ngài. Nhờ vậy, Ca Lưu Đà Di lần lần bỏ được tật cũ, tinh cầntu tập không bao lâu sư đắc quả A La Hán. Việc lớn đã xong, tôn giả đem hết năng lực của mình để phụng sự mọi người. Tôn giả tỏ ra có nhiều sáng kiến trong việc giúp Phật tổ chức tăng đoàn và hướng dẫn quần chúng bình dân về hành chánh và ngoại giao là một trong những biệt tài sở trường của tôn giả. Tôn giả thường được Phật cử đi giảng hòa những vụ tranh chấp trong dân chúng. Và, bất cứ cuộc hiềm khích nào dù có gay go cách mấy, khi tôn giả đã nhúng tay vào đều được hóa giải rất tốt đẹp.
Về sau, do những dư nghiệp của quá khứ, tôn giả Ca Lưu Đà Di đã điềm nhiên thị tịch dưới nhát dao của một tên gian phu hung bạo khi tôn giả muốn ngỏ lời cứu hắn ra khỏi bùn nhơ của dục vọng.
Em thân mến!
Các nhà chú giải Luật tạng theo hệ Bắc phương xem tôn giả Ca Lưu Đà Di như một vị hóa thân Bồ Tát, thị hiện đa dục để hóa độ chúng sanh.
Riêng tôi, khi kể lại câu chuyện này, tôi chỉ muốn giới thiệu với em hương thơm của một đóa sen nở giữa ao bùn. Thông thường, chúng ta ai cũng vồn vã hái hoa nhưng lại cau mày với bùn nhơ nước đọng. Chúng ta không tiếc lời ca ngợi các bậc tài hoa nhưng lại khó chịu khi thấy những cái tật của họ. Chỉ có những tấm lòng từ bi và nhân hậu mới có thể chịu đựng nổi những cái tật để giúp đương sự chuyển hóa nó thành cái tài. Đó chính là trường hợp của đức đạo sư và tôn giả Ca Lưu Đà Di vậy.
Hai Bà Hàng Xóm
Ngày xửa ngày xưa, có hai thiếu phụ ở cạnh nhà nhau. Một người làm nghề thợ dệt, một người buôn bán lụa là gấm vóc.
Một hôm, có cụ hành khất đến nhà người bán lụa xin cơm. Vốn keo kiệt, người chủ nhà liền đuổi ông lão ra khỏi nhà kèm theo những lời quát mắng phũ phàng. Người hành khất liền mò sang nhà bên cạnh, chị thợ dệt tuy nghèo nhưng đón chào vị khách không mời này bằng một nụ cười và nửa phần ăn trưa của mình. Ăn uống xong, ông lão cáo từ ra đi với một lời chúc tốt lành gửi lại:
“Việc gì làm lúc sớm mai
Sẽ phải làm đến hết ngày mới xong.”
Sáng hôm sau, chị thợ dệt thức dậy thật sớm để tiếp tục công việc thường ngày. Khi kéo tấm vải ra khỏi khung cửi để đo và xếp, chị ngạc nhiên khi thấy xấp vải kéo dài dường như bất tận. Mãi đến lúc hoàng hôn, căn nhà đã chất đầy những cây vải mới, sự kỳ diệu của lời chúc lành mới chấm dứt.
Câu chuyện được truyền đi rất nhanh. Chị hàng xóm bán lụa là người nhận được trước tiên. Chị không ngớt than van, hối tiếc về việc đã để thoát khỏi nhà mình một con người kỳ lạ có thể đem đến cho gia chủ một nguồn lợi to lớn như thế.
Từ hôm đó, chị ngong ngóng chờ đợi người hành khất tái hiện.
Ngày ấy rồi cũng đến. Lần này, ông cụ được tiếp đón niềm nở và trịnh trọng như một vị tiểu vương. Sau bữa tiệc linh đình, người hành khất cáo từ và cũng gởi lại cho gia đình chủ lời nguyện hôm xưa:
“Việc gì làm lúc sớm mai
Sẽ phải làm đến hết ngày mới xong.”
Đêm hôm ấy, chị bán lụa cứ trằn trọc mãi để tính toán xem phải làm việc trước tiên vào sớm mai cho khỏi “phí của trời” và tiếc nuối về sau. Mãi đến lúc gà gáy sáng, chị mới thiu thiu ngủ sau khi mang một túi vàng để sẵn dưới gối, định bụng sẽ đem ra đếm ngay lúc thức giấc.
Chị bán lụa giật mình thức giấc khi mặt trời đã lên cao, rọi những tia sáng huy hoàng vào khuê phòng của chị. Sật sừ ngồi dậy, chị quên tuốt hết mọi dự định. Thấy ngứa ngái ở vành tai, chị bán lụa đưa tay sờ và tóm được một chú rệp no tròn, vứt xuống nền gạch. Thế là suốt ngày hôm ấy, chị ta cứ phải đưa tay lên xuống như một con thoi… Và, cho đến chiều tối, chị mới kinh hoàng chạy ra khỏi ngôi ngà đầy nhung nhúc những rệp.
Truyện cổ Thụy Sĩ
Em thân mến!
Hèn chi mà trong các kinh, đức đạo sư thường khuyên chúng ta nên bố thí một cách Ba La Mật, nghĩa là làm một cách hồn nhiên vô tư như chị thợ dệt trên đây vậy.
Hòa Thượng Cua
Thuở trước ở miền Bắc nước ta có một chú bé mồ côi cha sống với mẹ tại một miền quê hẻo lánh nọ. Năm chú bé được 12 tuổi, bà mẹ vẫn còn buôn tảo bán tần để nuôi con.
Một hôm trong khi mang hàng ra chợ bán, bà mẹ trao cho con một giỏ cua đồng, bảo giã ra nấu canh làm cơm trưa. Chú bé y lời mẹ dặn, mang giỏ cua ra làm. Bất ngờ, vừa giáng chày đập con cua đầu tiên, thấy con vật quýnh quáng quờ quạng tay chân tìm đường chạy trốn, chú bé chợt động lòng bi mẫn, không nỡ tiếp tục, liền đem giỏ cua ra trút xuống ruộng cả.
Tan chợ, bà mẹ mang hàng về. Nhìn thấy mâm cơm đạm bạc, bà ngạc nhiên hỏi:
- Thế… món canh cua đâu? Chú bé ấp úng:
- Khi sáng, con mang cua ra làm, thấy chúng nó khóc, con thương quá nên thả hết rồi, mẹ ạ.
Vừa đói vừa giận, bà mẹ vơ lấy cây đũa bếp gõ cho con một cái. Chú bé hoảng sợ, co giò chạy ra khỏi nhà. Chú đi, đi mãi và các trận chiến liên miên đã ngăn cách chú với bà mẹ cùng quê nhà từ đó.
Ba mươi năm trôi qua… Bà mẹ đã già nua. Sau những năm di tản, đã trở về quê cũ, vẫn bán chè theo từng buổi chợ để mưu sinh.
Một hôm, đang buổi chợ, bà gặp một vị tăng trung niên, ghé qua hàng hỏi thăm gia thế và đề nghị giúp đỡ bà cụ bằng cách đem về chùa nuôi dưỡng. Bà cụ nhận lời và vào chùa công quả từ dạo đó.
Ngày tháng dần qua, đã đến lúc bà cụ từ giã cõi đời. Hòa thượng trụ trì, tức vị tăng đã đề nghị đưa bà vào chùa thuở trước, có việc phải đi bố giáo phương xa. Trước khi đi, ngài dặn các môn đệ rằng, nếu bà cụ có mất thì chư tăng cứ tẩm liệm chứ đừng mai táng mà phải đợi ngài về. Mọi người đều y lời.
Bà lão mất được một hôm thì Hòa thượng trở về. Đứng trước quan tài, Hòa thượng thắp hương khấn rằng:
- Trong kinh Phật có dạy, một người con tu hành đạt đạo, cha mẹ sẽ được sanh thiên, nếu lời dạy ấy không ngoa thì xin cho chiếc quan tài này vỡ ra để con thấy mặt mẹ lần cuối.
Hòa thượng vừa dứt lời, mọi việc xảy ra như lời nguyện, trước sự kinh ngạc của toàn thể hội chúng.
Hòa thượng bèn thuật lại thân thế của mình chẳng ai khác hơn là chú bé thả cua năm xưa. Từ đó, người ta gọi ngài là Hòa thượng cua. Và, cũng theo lời người kể thì mãnh vỡ của chiếc quan tài hiện còn lưu trữ tại một ngôi chùa Bắc Việt, để mọi người ghi nhớ câu chuyện lạ lùng và cảm động về Hòa thượng Cua và vị thân sinh ra ngài.
Em thân mến!
Câu chuyện trên đây, thầy Viện chủ đã kể cho tôi và các bạn nghe trong dịp người ghé thăm thiền viện. Trong thời thuyết giảng ngày hôm ấy, thầy có giảng trạch cho đại chúng rõ rằng, chân tinh thần của nhà Phật là dùng trí tuệ giải thoát hơn là sự cầu nguyện suông. Nếu sinh hoạt của Phật giáo nằm trong phạm vi cầu an cầu siêu không thôi thì không khéo quần chúng Phật tử, nếu thiếu sự dắt dẫn sẽ đi vàocon đường mê tín. Sự cầu nguyện sẽ có một mãnh lực siêu hình nếu đương sự hiểu rõ luật nhân quả, cải ác tùng thiện, như trường hợp của Hòa thượng Cua và bà mẹ ngài vậy. Bằng không, kết quả sẽ sai lệch như lời Phật dạy trong các bộ A Hàm: “Nếu có kẻ mang một tảng đá ném xuống sông rồi tụ họp các tu sĩ đứng hai bên bờ cầu nguyện cho nó nổi lên, lời cầu nguyện sẽ không được đáp ứng vì quá nặng. Cũng thế, nếu người gây nghiệp dữ mà nhờ các tu sĩ cầu nguyện cho được sinh thiên... thì không có chuyện đó vậy.”
Chúa Và Quỷ
Một hôm quỷ Sa Tăng đến hỏi Chúa:
- Tại sao ai cũng ca ngợi Ngài mà chửi rủa tôi?
Chúa đáp:
- Tại ngươi hay làm hại người ta, làm điều xấu ác cho người nên bị chúng chửi là chuyện đương nhiên.
Quỷ Sa Tăng không bằng lòng với lời giải thích trên cho lắm, nên Chúa bèn dắt hắn xuống trần gian để tìm bằng chứng cụ thể. Quỷ bay theo Chúa xuống đến trần gian vào một sớm còn mờ sương. Cả hai đáp xuống bờ đê của một thôn xóm thanh bình trù phú. Một chú bò đang đứng nhơi cỏ bên vệ đường, Sa Tăng chỉ con bò và đề nghị Chúa hãy trắc nghiệm trước. Chúa bèn bước đến gần con bò, hào quangsáng rực từ trên thân hình Ngài tỏa ra làm con bò kinh hoảng bước lui và sa chân vào một hố sình bên cạnh đường. Người chủ con bò thấy thế bước đến, cặp mắt phàm tục của anh không thấy cả Chúa lẫn quỷ mà chỉ thấy tình thế tệ hại của con bò. Anh ta cuống quýt vừa kéo con bò lên vừa chửi rủa:
- Quỷ Sa Tăng kéo mày xuống hố đấy hở? Đồ súc sinh!
Nghe anh nông phu chửi mình, quỷ Sa Tăng lườm Chúa, giọng ai oán:
- Cớ sự tại Ngài mà người ta lại chửi tôi đấy!
Con bò vẫn còn sa lầy, nhiều người kéo đến giúp nó nhưng vẫn không kết quả. Một bác nông phu già buột miệng:
- Nặng quá, có quỷ mới kéo nổi con bò này lên khỏi vũng sình!
Nghe người ta cầu viện đến mình, quỷ Sa Tăng bèn ra tay, con bò bước lên bờ đê một cách dễ dàng. Mọi người reo hô:
- Hoan hô, đội ơn Chúa! Nhờ ơn đức cao cả của Ngài mà con bò thoát nạn.
Quỷ Sa Tăng lại buồn bực bảo Chúa:
- Tôi giúp họ thì họ lại cảm ơn Ngài.
Truyện cổ Ba Lan
Em thân mến!
Đây là một câu chuyện vui mà tôi đã đọc đâu đó trong các sách phương Tây. Chúng ta có thể mượn lời đức Phật để an ủi ông quỷ trên như thế này:
“Không phải do lời tôn xưng của người khác mà ta thành cao quý, không phải vì lời nguyền rủa của thế nhân mà ta thành đê tiện, nhưng chính những tâm niệm, lời nói và hành vi của chính ta sẽ làm cho chúng ta thành cao quý hay đê tiện.”
Hành động của ông quỷ Sa tăng ở trên là một việc làm đáng ca ngợi. Vì vậy, khi thiên hạ hoan hô Chúa, tức là đã hoan hô người đã làm hành động tốt lành ấy. Các danh từ - huyễn danh CHÚA hay QUỶ đối với Phật giáo không quan trọng.
Trong thiền sử có một bài thơ như thế này:
Tạc nhật Dạ xoa tâm
Kim triêu Bồ Tát diện
Bồ Tát dữ dạ xoa
Chỉ cách nhất điều tuyến.
Nghĩa là:
Hôm qua lòng dạ xoa
Sáng nay mặt Bồ Tát
Bồ Tát cùng dạ xoa
Cách nhau trong tơ tóc.
Các em có đồng ý tặng bài thơ này cho ông quỷ Sa tăng trên không?
Viên Ngọc
Ngày xửa ngày xưa, có một vị vua nhân từ thương dân như con đẻ. Ân đức của nhà vua làm cảm độngđến các vị thần nơi cõi vô hình. Bữa nọ, nữ thần bể cả gọi ngư phủ đến, nhờ bác ta truyền trao lại đức vua bốn viên ngọc quý.
Bác ngư phủ ấy là một người thật thà, tốt bụng. Cầm bốn viên ngọc quý trên tay, bác tất tả bỏ hết công ăn việc làm, khăn gói về kinh thành bệ kiến đấng quân vương. Thấy tấm lòng hiếm có của vị thần dân lương hảo, đức vua cho phép bác ngư phủ được quyền chọn một trong bốn viên ngọc. Trước ân sủngbất ngờ ấy, bác ngư phủ không khỏi lúng túng. Sau một lúc bóp trán suy nghĩ, bác phủ phục trước bệ rồng, tâu:
- Muôn đội ơn chúa thượng! Một mình thần không thể quyết định được công việc trọng đại này, xin chúa thượng gia ân cho hạ thần trở về hỏi ý kiến của bu nó và bầy trẻ.
Đức vua hoan hỷ tán thành và gia ân cho bác lương dân nửa tháng chọn lựa.
Về nhà, bác ngư phủ cho hội họp tất cả thành viên trong gia đình, gồm bà vợ và hơn nữa tá con trai, con gái để trưng cầu dân ý. Trước hết, bác ngư phủ trình bày sơ qua sự kiện và nhấn mạnh công dụngcủa từng viên ngọc.
Viên ngọc thứ nhất sẽ đem lại cho người chủ nó những thức ăn ngon lành, béo bổ mà không một tiệm cao lâu nào trên trần gian có thể nấu nướng được.
Viên thứ hai sẽ tuôn ra những lụa là gấm vóc, các loại y phục thời trang, dầu thơm hảo hạng, đủ sứcbiến một cô bé lọ lem thành người đẹp nhất xứ.
Viên ngọc thứ ba có công dụng mang lại các thứ binh khí, dụng cụ chiến đấu tối tân hiện đại nhất dư sức giúp cho bất cứ chàng trai tầm thường nào trở thành một danh tướng lẫy lừng khắp bốn vùng chiến thuật.
Viên thứ tư có khả năng mang lại tất cả các loại tiền bạc thông dụng đang hiện hành trên thế giới, mà chủ nhân của nó không cần phải đổ một giọt mồ hôi nước mắt nào cả.
Xong, bác ngư dân trân trọng báo tin:
- Đức vua cho phép chúng ta được chọn một trong bốn viên ngọc ước đó. Tôi không thể quyết định hấp tấp được nên phải về hỏi ý kiến của mọi người trong gia đình mình. Vậy, ta nên chọn viên ngọc ngào nhỉ?
Tức thì, mọi người tranh nhau phát biểu ý kiến không ai chịu nhường ai. Bác gia trưởng đành phải yêu cầu các thành viên giữ trận tự và lần lượt phát biểu theo tuổi tác. Bà vợ là người lên tiếng đầu tiên:
- Theo tôi thì nên chọn cái viên ngọc ước ra đồ ăn đó. Hạnh phúc trên trần gian này không gì bằng ăn no, ngũ kỹ mà khỏi phải bận tâm lo mua sắm nấu nướng, bố nó ạ!
Đám con gái liền nhao nhao phản đối:
- Mẹ nói thế mà nghe được à? Ăn nhiều lắm chỉ tổ mập phục phịch như mẹ thôi… Chúng con thà rằng ăn cháo với muối qua ngày mà được có lụa là son phấn. Chọn viên ngọc thứ hai đi, bố ạ!
Đám con trai nhún vai bảo:
- Rõ là đàn bà con gái… Suốt ngày chỉ ăn với mặc. Chúng con sắp đến tuổi thi hành nghĩa vụ quân sự cả rồi, thưa với bố mẹ! Xin bố hãy chọn viên ngọc thứ ba để tụi con có đủ khả năng phò vua giúp nước, lập công trạng mà lưu danh thiên cổ…
Tức thì bà vợ bác ngư phủ chu chéo lên, đám con gái khóc rấm rức, bọn con trai đập hết mấy tá tô chén bát đĩa… Bác gia trưởng đành giảng hòa:
- Thôi… thôi! Cho tôi xin một phút bình an có được không nào? Ầm ĩ thế này thì đến thánh cũng chịu. Tôi tính thế này: Bu nó muốn ăn ngon, con gái muốn mặc đẹp, con trai muốn đồ binh khí… thì ta cứ chọn viên ngọc thứ tư, ước ra tiền bạc… Có tiền mua tiên cũng được… nữa là những thứ quái quỷ ấy… Phải không nào?
Bà vợ quát lên:
- Có tiền mua tiên cũng được đấy nhưng rồi ai chịu đứng ra nấu nướng, hay cũng chỉ con mọi già này?
- Thì ra ăn tiệm vậy.
- Nhưng có tiệm nào nấu được các thứ sơn hào hải vị của thần tiên đâu? Ôi, tôi cực khổ suốt đời vì bếp núc…
Đám con gái thì nhì nhằng:
- Bố ạ! Làm sao mua được những y phục, son phấn của cõi trời. Thứ gì mình mua được thì thiên hạcũng có, đâu còn sang và quý nữa, hở bố?
Đám con trai biểu đồng tình:
- Tiền bạc cho lắm cũng chỉ mua được ba lưỡi gươm của bọn thợ rèn… “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.” Xưa nay chinh chiến mấy ai về… Thương cho chúng con với bố ạ!
Người gia trưởng lúng túng khổ sở… Một tuần lễ trôi qua, gia đình bác ngư phủ như có đám tang. Trong khi bác ôm đầu ngồi rầu rĩ, bỏ mặc ghe chài cùng lưới câu thì bọn con trai cũng vất hết cày bừa, đám con gái chẳng sờ đến khung cửi… Hết cãi nhau rồi ngồi khóc ti ti… Mụ vợ làm hư nằm ăn vạ trong bếp, bò bê không người chăn, bầy lợn sữa kêu eng éc.
Chưa đến ngày hẹn, đức vua đã thấy bác ngư dân tất tả đến, phủ phục trước sân rồng. Nhà vua vui vẻhỏi:
- Thế nào? Gia đình khanh nhất trí chọn viên ngọc nào?
- Muôn tâu! Bọn ngu thần xin phép được từ chối không nhận viên nào cả…
Đức vua ngạc nhiên:
- Ủa, sao thế?
Bác ngư phủ bèn thuật lại tự sự và kết luận:
- Muôn tâu! Trên thế gian này không điều gì quý bằng hạnh phúc. Từ lâu thần lầm tưởng rằng phải có vàng bạc, nhung lụa, binh khí chiến đấu cùng những thức ăn sơn hào hải vị thì người ta mới sống hạnh phúc được. Ngờ đâu, khi những thứ đó mới vừa lăm le bước chân vào ngưỡng cửa nhà hạ thần thì hạnh phúc chạy đâu mất. Hơn tuần nhật qua thần có cảm tưởng như mình đang sống trong địa ngục. Mọi người trong gia đình thần đều cảm thấy khổ sở và chán nản vì cứ nghĩ đến mình cùng những nhu cầu riêng tư. Thần xin được mạn phép trả lại bệ hạ các viên ngọc… báo hại này để trở về với nếp sống bình thường. Ngu thần hoàn toàn hài lòng với thứ hạnh phúc nhỏ nhoi, tầm thường mà bọn thần phải đổi bằng mồ hôi và tâm sức của mình.
Từ đó, bác ngư phủ lại đi đánh cá như cũ, mụ vợ bác mỗi ngày đi chợ, làm cơm và trông nom bầy gia súc trong nhà, đám con gái dệt cửi cong cóc suốt cả ngày đêm, bọn con trai thì cày ruộng trồng khoai, tỉa lúa. Họ sống bình thường bên nhau trong thứ hạnh phúc khiêm tốn ít ỏi của kiếp người cho đến lúc mãn đời..
Em thân mến!
Thế thì, em đã hiểu tại sao mà chúng ta phát tâm tu hành không vì cầu nhơn thiên phước báu, những dục lạc của cõi người và cõi trời mà chỉ cốt trở về với cái tâm bình thường như lời Phật dạy. “Không có gì hạnh phúc cho bằng sự an tĩnh của tâm thức” hay chưa?
Hận thù diệt hận thù
Đời này không thể có
Từ bi diệt hận thù
Là định luật nghìn thu
Pháp cú
Bảy Mươi Năm Cuộc Đời
Ngày xửa ngày xưa… khi thượng đế vừa khai sinh lập địa, tạo ra loài người và muôn vật xong, Ngài cho mỗi sản phẫm hữu tình của mình được tự do phát biểu ý kiến, muôn loài lũ lượt kéo nhau đến thưa kiện xin xỏ, kèo nài và dâng yêu sách lên thượng đế.
Thấy chàng lừa bước đến, đấng chí công từ bi bảo:
- Ta cho con tuổi thọ 30 năm!
Lừa lắc đầu than van:
- Tâu thượng đế! Không lẽ con trách móc ngài đã sinh con ra trên trần gian này chứ… với loài lừa chúng con, sống thêm một ngày là một ngày nhọc nhằn mỏi mệt, chở nặng mang nhiều chứ có sung sướngthanh nhàn gì đâu? Ba mươi năm quả là một hình phạt quá dài đối với chúng con.
Lừa kì kèo mãi, thượng đế phải giảm tuổi thọ hẳn một con giáp, còn 18 năm.
Đến lượt chó, thượng đế cũng rất mực anh minh và công bằng:
- Ta cho mi sống 30 năm!
Chó giãy nẩy lên:
- Trời ơi! Bộ ngài tưởng làm thân chó sung sướng lắm hở? Muốn ăn được một ít cơm thừa canh cặn của con người, cũng phải xum xoe, tíu tít vẫy đuôi, lè lưỡi đến đổ mồ hôi, sôi nước mắt ra đấy…
- Thôi thì 18 năm… bằng thằng lừa vậy!
- Ối giời! Anh lừa thì dù có chở nặng thật nhưng còn được đi đây đi đó, ngủ nghỉ có giờ giấc… còn thân con thì suốt ngày đêm phải giương mắt ra mà canh trộm, đuổi gà, lẩn quẩn hết xó nhà đến góc bếp… Xin đèn trời soi xét giùm cho.
- Thôi thì, ta giảm cho mi thêm nửa kỷ nữa… 12 năm vậy!
Chó bằng lòng, ngoắc đuôi chạy đi!
Thấy khỉ vừa chuyền cây nhảy xuống, thượng đế bảo:
- Ba mươi năm được không, hở thằng khỉ kia?
Khỉ vội vàng chắp tay bái dài:
- Khổ thân con lắm, xin Ngài giảm bớt cho!
- Bọn mi nhảy nhót, nô giỡn cả ngày kia mà.
- Ấy… “Bề ngoài cười nụ bề trong khóc thầm.” Muôn tâu, chúng con đói khát khổ sở đến nổi loài ngườithường bảo: “Ốm như khỉ,” “nhăn như khỉ” ấy… Nếu không tin Ngài hỏi lại loài người xem.
Thượng đế chau mày:
- Thôi thì 18 năm vậy!
- Tâu… vẫn còn quá dài! Chúng con ở rừng thì sợ hãi, không móng vuốt để hộ thân…
- Ta cho phép con về sống chung với con người và giảm bớt tuổi xuống bằng con có: 12 năm đấy nhé!
- Muôn tâu, ở chung với con người cũng chẳng sướng ức gì. Tụi con phải nhăn nhó làm trò khỉ suốt ngày cho bọn con nít tiêu khiển. Đến lúc nhảy nhót hết nổi thì họ mang chúng con ra nấu cháu khỉ.
Thượng đế mủi mòng dịu giọng:
- Ta giảm cho con nữa: 8 năm tuổi thọ vậy!
Đến lượt con người bước ra, thượng đế bảo:
- Ta cho con 30 năm tuổi đời!
Lập tức thằng người, ông tổ của chúng ta, hoảng hốt kêu lên:
- Muôn tâu, ngần ấy thời gian chỉ mới đủ cho con cất nhà, đào giếng, trồng cây, chưa kịp hái quả đầu mùa thì đã…
Thượng đế ngạc nhiên:
- A, thằng nhãi! Thế mi muốn gì? Thêm tuổi thọ à?
- Thưa, đúng như vậy! Thà rằng Ngài đừng sinh chúng con ra. Sống chi mà ngắn ngủi như thế thì thà rằng đừng sống còn hơn.
- Thôi được! Ta cho con thêm 18 năm của con lừa chê bỏ lại đó… đủ chưa?
Con người gãi đầu, nài nỉ:
- Vẫn còn ít lắm ạ! 48 năm nào có là bao?
- Thế thì… cộng thêm tuổi thọ của loài chó nữa nhé?
- Thưa… đấng toàn năng vô song, quyền phép tối linh cao thượng của Ngài nào có tốn kém chi, cho con xin thêm một ít nữa, kẻo sau này đám con cháu, hậu duệ của con sẽ trách là ông tổ của chúng, miệng lưỡi để đâu ấy!
Thượng đế nghiêm nét mặt phán:
- Người là loài sinh vật quấy rầy ta nhiều nhất từ mới đến giờ. Nhưng thôi, ta cộng thêm cho ngươi 8 năm của loài khỉ, vị chi là 70…
Chẳng để con người kịp phản ứng, thượng đế rũ tay áo biến mất sau một đám mây lành.
Từ đó, mọi sinh vật đều sống theo tuổi thọ mà thượng đế đã ban cho đấng cao tổ đầu tiên của chủng loại: lừa 18, chó 12, khỉ 8 v.v… Riêng loài người, sau 30 năm sống đời tươi đẹp của kiếp người, phải trải qua 18 năm làm quần quật để trả nợ phục vụ một cách ngu ngốc cho thiên hạ, hệt như loài lừa. Khi thời gian làm “kiếp con lừa” đã trôi qua, con người lại bắt đầu sống “kiếp con chó” trong 12 năm, thơ thẩn nơi hóc nhà, xó bếp, trông cửa ngó nhà và ăn cơm thừa canh cặn của con cháu họ thải ra cho. Cuối cùnglúc đã ngoài lục tuần, con người đâm ra lẩn thẩn khi nhăn nhó, lúc càu nhàu, bồng cháu trông chắt… làm những trò buồn cười, trẻ con để mua vui cho thiên hạ… Đó là những quãng đời cuối cùng 8 năm làm “trò khỉ” vậy!
Ngoài 70 năm có giấy phép hẳn hoi trên, nếu đấng nhân loại nào lạm phát thêm vài năm nữa thì các đấng sinh vật của tạo hóa không biết xếp họ và loài nào, khi mà răng rụng, mắt mờ, tai điếc, râu tóc đã bạc phơ… Không thể đứng vững trên đôi chân mình, cũng không thể xin xỏ gì thêm nơi đấng chí tôn, con người bèn đau khổ nhặt một cây gậy làm chân giả. Khi ấy, thiên hạ mới dè dặt kết luận rằng con người là sinh vật… ba chân độc nhất, rắc rối nhất, kỳ cục nhất… nơi cái trần gian đa sự này đây.
Truyện cổ Đức
Ma Đăng Già Mục Đế Lệ
Ma Đăng Già Mục Đế Lệ là một thiếu nữ thuộc thế cấp tiện dân Ấn. Tuy không phải là dòng dõi danh giavọng tộc, nhưng Mục Đế Lệ có nhan sắc khá diễm lệ.
Một hôm, đang gánh nước bên bờ suối, Đế Lệ gặp một thanh niên trẻ tuổi đến chìa bát ra xin nước uống. Thiếu nữ sợ hãi che mặt thưa:
- Bạch sa môn! Con thuộc hàng tiện dân nô lệ. (Luật pháp Ấn không cho phép hàng tiện dân gặp mặt hay trò truyện cùng với các thế cấp khác, nhất là với giai cấp tu sĩ hay vua chúa).
Vị sa môn từ tốn đáp:
- Đức đạo sư của tôi có dạy rằng, không thể nào có giai cấp riêng biệt khi máu của mọi người cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau. Nếu không có gì phiền lòng, xin cô cho tôi một bát nước uống.
Mục Đế Lệ bỡ ngỡ rót nước vào bát cho nhà tu. Ông ta nhận lấy, cám ơn rồi cáo biệt. Vị tu sĩ này không phải là ai đâu xa lạ. Chính là tôn giả A Nan, người thị giả đồng thời là người em chú bác với đức đạo sư, rất mực đẹp trai và giàu lòng bi mẫn.
Sau một lần hội kiến trên, Mục Đế Lệ lâm bệnh tương tư, biếng ăn bỏ ngủ, dung nhan ngày một võ vàng tiều tụy. Mẹ cô thấy lạ gạn hỏi và biết được duyên cớ, khuyên dỗ mãi chẳng xong, bèn dắt con đến tinh xá tìm tôn giả A Nan bắt đền và “mắng vốn” đức đạo sư. Đức Phật viện lẽ rằng tôn giả A Nan không thể nào hoàn tục để đi ở rể được, nếu Mục Đế Lệ muốn gần gũi thì nên xuất gia là thượng sách. Thiếu nữbèn bằng lòng cạo tóc dù mẹ cô đã hết lời ngăn cản, cô cảm thấy rằng không thể nào sống nổi nếu không được gặp mặt người sa môn trẻ tuổi dễ thương đó.
Nhờ sự hướng dẫn khéo léo của đức đạo sư và chư ni, Mục Đế Lệ tinh cần tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A La Hán, một quả vị mà mãi đến lúc đức đạo sư nhập niết bàn rồi, tôn giả A Nan mới với tới được.
Mọi chuyện rắc rối đều chấm dứt vì một vị A La Hán thì không còn tí tẹo phiền não nào cả nên những chuyện yêu thương sầu khổ hay lục đục thất tình đều trôi tuốt luốt cả. “Sanh đã tận, việc làm đã xong.” Các kinh điển theo hệ Pali đều kể về các ngài như thế đó.
Em thân mến!
Đó là truyền thuyết về cô Ma Đăng Già Mục Đế Lệ theo kinh điển Nam Tông. Chúng ta có thể thông cảmnhững niềm sầu nổi khổ của cô một cách dễ dàng vì bất chấp khoảng cách của không gian và thời gian. Chúng ta những phụ nữ trẻ tuổi đều được cấu tạo bằng những thứ tâm và sinh lý như nhau, nếu không nói là giống hệt nhau. Ngoại trừ các bậc thánh mà tâm tư các ngài đã trắng bạch như vỏ ốc ra, người trẻ tuổi nào lại tránh khỏi chuyện bồi hồi, nao nao cảm xúc khi giáp mặt với người khác phái, mặt mũi dễ coi, ăn nói dịu dàng và tế nhị cỡ tôn giả A Nan (hay xấu hơn một tí cũng được). Đây quả là một tai nạn xảy ra ngoài ý muốn của hàng tu sĩ chúng ta. Kinh điển Nam phương chỉ ghi lại thật tóm tắt sự kiện xảy ra, nhưng điểm then chốt “tỳ kheo Mục Đế Lệ đã làm thế nào để thành A La Hán” thì chúng tahoàn toàn mù tịt, chỉ biết là vị nữ tu sĩ này “tinh cần tu tập nên chẳng bao lâu được đắc quả A La Hán.”
Để bổ túc cho điều khiếm khuyết trên, kinh điển theo hệ Bắc phương đã chỉ cho chúng ta thấy biết nên chuyển phiền não thành Bồ đề bằng cách nào. Mời em hãy cùng chúng tôi đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm, một bản kinh quan trọng của Phật giáo Bắc phương có ghi rõ như thế này.
“Sau khi thấu rõ nỗi lòng con cái, bà mẹ của Mục Đế Lệ đã truyền cho cô một bài thần chú tên là “Ca tỳ lê phạm thiên”, bảo cô học thuộc lòng, và chờ cơ hội thuận tiện. Ngày ấy đã đến, một ngày rằm tháng bảy, tôn giả A Nan vì đi xa về trễ nên ôm bát đi khất thực một mình. Mục Đế Lệ bèn đọc bài thần chúbáo hại đó. Thật là linh nghiệm! Vị sa môn trẻ tuổi bị bùa phép của thần chú, ôm bát chạy một mạch vào nhà người đẹp.
Thời may, đức đạo sư ngày hôm ấy đang thọ trai ở hoàng cung vua Ba Tư Nặc, biết người đệ tử cưng của mình đang lâm nạn nên thọ trai xong, đức Phật vội vã trở về. Đến kỳ viên Ngài tuyên thuyết thần chú Thủ Lăng Nghiêm và trao cho Bồ tát Văn Thù bảo phải đi thẳng tới nhà Ma Đăng Già để cấp cứutôn giả A Nan. Ngài Văn Thù y lời, dắt được tôn giả A Nan về tinh xá gặp Phật và chúng tăng.
Vừa trông thấy Phật, vị sa môn trẻ tuổi liền òa lên khóc và sụt sùi kể lể:
- Con những tưởng mình là em cưng của Phật, được hầu hạ một bên thì thế nào cũng được giác ngộké…Ngờ đâu hôm nay bị thiên hạ bắt cóc, suýt nữa thì tiêu ma hết sự nghiệp tu trì.
Thấy tôn giả khóc lóc quá sức, đức đạo sư bèn an ủi và hỏi:
- Này A Nan! Nguyên do nào khiến con phát tâm xuất gia?
- Thưa, vì con thấy tướng mạo của đức Thế Tôn quá đẹp, con nghĩ bụng rằng những tướng mạo ấy không thể nào do ái dục mà có được. Nhân đó mà con phát tâm xuất gia.
- Thế con lấy gì để thấy và dùng gì để biết?
- Con dùng mắt để thấy và dùng tâm để biết.
- Thế mắt ở đâu và tâm ở đâu?
Tôn giả A Nan liền đáp là mắt ở dưới lông mày và tâm ở trong thân. Đức Phật chỉ chấp nhận vị trí của mắt nhưng không đồng ý về vị trí của tâm, dù tôn giả A Nan đã chỉ đi chỉ lại đến 7 lần.
Ở những đoạn kinh sau, đức Phật mới dùng các thí dụ cho tôn giả nhận rõ đâu là chân tâm đâu là vọng tâm. Sau khi phân biệt rõ ràng hai thứ tâm ấy, tôn giả A Nan mừng vô kể, liền quỳ xuống đọc một bài phát nguyện thật hùng hồn, thật lớn lao và tha thiết. Lời phát nguyện ấy từ thuở mới vào chùa, tôi và em đã chắp tay đọc hàng bao nhiêu lần trong thời kinh nửa sáng:
… Nguyện trở lại trong đời mê trược
Cứu chúng sinh hàn vết đau thương
Để báo đền ơn đức Thế Tôn
Xin đem hết thân tâm phụng sự
Đời ngũ trược con thề vào trước
Dù gian nguy chí cả không sờn
Cứu chúng sinh là báo Phật thâm ân
Lời ngọc vàng con hằng ghi dạ
Nếu còn một chúng sanh chưa chứng quả
Cõi niết bàn con đâu dám tự an…
Em thân mến!
Tôn giả A Nan quả là đồng minh của chúng ta ở phần đầu đoạn kinh, từ lúc ngài ôm bát chạy một mạchvào nhà người đẹp cho đến lúc được ngài Văn Thù dắt về tinh xá, òa lên khóc khi gặp thầy bạn. Tôn giảđã đại diện cho chúng ta đưa lên những câu hỏi và đáp hết sức chân thành nhưng lúng túng… Mãi đến khi ngài quỳ xuống, đọc bài phát nguyện hùng hồn trên, chúng ta mới bị lạc lối.
Cái gì đã khiến chàng thanh niên mới hồi nãy còn sợ sệt, khổ sầu, khóc lóc… mà chỉ trong khoảng khắc đã biến thành những tâm niệm dũng mãnh, từ bi và sung mãn trí tuệ như thế?
Sự biến chuyển trong tâm tư của chàng thanh niên trẻ A Nan có khác chi việc “hoát nhiên đại ngộ” của các thiền tăng Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam suốt cả nghìn năm lịch sử. Họ giống như chú sư tử con lạc mẹ từ thuở bé thơ, phải sống chung với đoàn cừu hiền lành nhút nhát, ăn cỏ, uống nước bẩn, lòng đầy sợ hãi… lúc nào cũng lo lắng sợ sệt những điều bất trắc sẽ xảy ra cho tấm thân yếu ớt của mình?
Cho đến một hôm, sư tử vàng, vị chúa tể của rừng xanh bắt gặp sư tử con đang lúc thúc theo đàn cừu ăn cỏ, kêu be be và yếu đuối hệt như chú cừu non. Vị chúa rừng bèn tóm cổ sư tử con, chú nhỏ ngất đivì sợ. Đến lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm dưới chân sư tử, chú cuống quít mếu máo, xin được tha mạng. Sư tử vua bèn dí mũi chú xuống dòng suối trong vắt bên cạnh, và bắt chú phải mở mắt nhìn xuống…
Sư tử con vâng lời… và lạ lùng thay… sau làn nước trong leo lẻo chú nom thấy bóng một con sư tửthiếu niên lông vàng bên cạnh sư tử chúa, với đầy đủ vẻ oai phong lẫm liệt của nòi sư tử. Sau tiếng gầm vang dội cả nuối rừng, sư tử con, tức chú cừu non bé bỏng dạo nào, mới thật sự nhận mình là nòi sư tử. Kể từ giây phút ấy, chú nhỏ dứt khoát từ bỏ chuỗi ngày yếu đuối sợ sệt, hèn nhát của loài cừu, hoàn toàn dũng mãnh, can đảm, thừa sức đối phó với bao nhiêu điều bất trắc của rừng thiêng.
Em thân mến!
Sau khi nhận rõ chân tâm, tôn giả A Nan đã rống lên như sư tử, tiếng rống đầy tự tin ấy là bài kệ mà chúng ta cũng tập gầm
Hư Hư Lục : Phần 7
như sư tử nhưng lòng đầy hãi hùng lo sợ khi phải đối mặt với bát phong, phải hiện diện trong cõi đời mê trược mà thiếu bàn tay dìu dắt của thầy, bạn.
Em ạ!
Tôi chưa đắc A La Hán quả lần nào hết và cũng không phải là một tu sĩ mật tông chính hiệu nên tôi không dám nói với em về sự linh nghiệm của thần chú đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, tôi chỉ có thể giải thích cho em nghe về các sự kiện xảy ra trong đoạn kinh trên bằng nhãn quan của một kẻ phàm phuđa sự mà thôi.
Có phải trong quãng đời thiếu tráng của một nhà tu trẻ tuổi nào chúng ta cũng có ít nhất một lần tôi hay em đều bị vướng vào cái thần chú “Ca Tỳ Lê” quỷ quái của bà mẹ cô Ma Đăng Già nọ (dù rằng cô Ma Đăng Già đã đặng thánh quả và nhập niết bàn hơn 25 thế kỷ rồi). Bất kể đẹp xấu, sang hèn giỏi dở… đến một lúc nào đó, chúng ta bỗng dưng thấy mình mở mắt ra, thức dậy. Cuộc đời sẽ lạ lùng hơn khi tâm tư chúng ta bắt đầu xúc động vì hình ảnh khó phai mờ của người khác phái… Đó chính là lúc ta mắc phải cái thần chú quỷ quái của ông phạm thiên, vì trời cai quản thế gian theo tín ngưỡng Ấn giáo. Khi khổng khi không chúng ta bị sao vào mê hồn trận, vừa cảm nghiệm một trạng thái lạ lùng kỳ diệu, khi cái ngã nhỏ nhoi của chúng ta bỗng dưng bể ra để rước thêm một cái ngã nữa của tha nhân, vừa cảm thấy một nỗi niềm thống khổ đau xót vô hạn… Ta thấy mình yếu đuối như một cành lau trước gió, nửa muốn đuổi đeo tiếp tục, nửa trốn chạy hãi hùng, nhưng đàng nào cũng nan giải cả. Đây chính là lúc tôn giả A Nan ôm bát đứng phân vân trước nhà người đẹp vậy.
Bồ tát Văn Thù, người lãnh xứ mạng đi giải cứu tôn giả A Nan, chẳng ai đâu xa lạ, chính là trí huệ sẵn có của mỗi người chúng ta.
Khi đã sa vào cái mê hồn trận này, có đôi lúc chúng ta sực tỉnh, thấy được sự vô lý và phi lý của chuyện “Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương.” Đó là những lúc ta bất chợt khám phá ra chân tướng của đối tượng mình tôn thờ, họ không được toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ như ta lầm tưởng mà dường như họ là hình bóng phản chiếu của chính mình… Đối tượng ấy giống như mảnh vải mắc trên giá vẽ, ký ức ta là bột màu, sự tưởng tượng phong phú là bàn tay tài hoa. Chúng ta đã đi say mê thờ phụng một hình ảnh của chính mình tưởng tượng vẽ ra hơn là con người hiện thực của tha nhân. Thấu đáo được điều này thì Bồ tát Văn Thù đã mang chúng ta về tinh xá vậy.
Bây giờ, tôi và em hãy đọc lại lời đối đáp của tôn giả A Nan, nếu ngài bảo rằng: “Vì thấy Phật đẹp trai xuất gia” thì khi thấy “thiếu nữ Ma Đăng Già đẹp gái” tôn giả A Nan sinh tâm nhập gia là một chuyện rất thường tình, có phải thế không nào?
Nhìn lại nguyên nhân, động cơ thúc đẩy mình đi xuất gia, chúng ta phải e dè mà thú nhận rằng cũng na ná như tôn giả A Nan, nghĩa là do thấy những cảnh sắc thinh hương vừa ý đẹp lòng mà chúng ta phát tâm xuất gia… Vậy thì, một ngày đẹp trời nào đó, gặp phải những đối tượng tương tự làm đẹp ý vừa lòng, chúng ta có thể sinh tâm… nhập gia trở lại… em có thấy như thế không?
Kinh Kim Cang có một bài kệ như thế này:
Nếu do sắc thấy ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người ấy hành đạo tà
Không thể thấy Như Lai…
Như vậy, con đường tìm cầu giác ngộ (kinh Kim Cang gọi là Như Lai) không thể nào cầu bằng sắc tướng âm thinh, dù là sắc tướng và âm thanh của Phật, mà phải dùng trí tuệ quán chiếu, thấu cho rõ thật tướng của vạn pháp. Vì thế ở đoạn kinh kế trong Thủ Lăng Nghiêm, đức đạo sư giúp ngài A Nanbiện diệt rõ chân và vọng của bản tâm. Nhận rõ chân tâm rồi, tôn giả liền hết sợ hãi, nín khóc và phát những lời thệ nguyện đại hùng đại lực như thế đó. Phần chúng ta, không thể nào gỡ cái thần chú Ca Tỳ Lê rất quỷ quái và lạ lùng với kẻ tu hành, nhưng rất bình thường đối với thế nhân, bằng cách khóc lóc, kể lể, hối hận hay biện minh được. Chúng ta phải dùng phương thuốc mà đức đạo sư đã bày cho tôn giả A Nan, để biến chú cừu non thành sư tử lông vàng vậy.
Em hãy đến dòng suối thiêng của rừng xanh để soi lại mặt mũi của mình. Phần tôi, tôi cũng sẽ đi tìm một dòng suối mát, rửa mặt và chờ đợi em, chúng ta sẽ cất tiếng rống vang rừng núi một lượt em nhé!
Người tưới nước lo phần dẫn nước
Thợ cung tên lo chuốt cung tên
Thợ hồ tô vách xây nền
Cũng như người trí ngày đêm luyện lòng
Pháp Cú 80
Quả Bí Đầu Mùa
Ngày xửa ngày xưa, có anh nông dân hiền lành chất phác làm ăn chân chỉ hạt bột. Thu được quả bí đầu mùa vào ngày sinh nhật của đức vua, anh nông dân liền mang quả bí vào hoàng cung dâng đức vua với tất cả tấm lòng thành kính của anh.
Nhận được món quà mộc mạc của người thần dân lương hảo, đức vua - vốn là một vị minh quân - rất lấy làm cảm động và đẹp dạ. Ngài truyền lệnh đặt quả bí lên một chiếc mâm vàng, ân cần hỏi thăm gia thế của vị khách dân giả. Trước khi anh nông dân ra về, đức vua trân trọng đổi cái bị rách của anh bằng chiếc túi gấm nạm ngọc, một chiếc khăn voan đắt tiền được gởi về cho người vợ trẻ của anh. Chưa hết, nhà vua còn ban cho con trai anh một thanh gươm báu để sau này lớn lên cậu sẽ phò vua giúp nước, một chiếc nhẫn ngọc cho cô con gái làm của hồi môn.
Anh nông dân về làng, đôi chân đất của anh cuống quýt vì chở quá nhiều niềm vui. Nửa giờ sau, câu chuyện tốt lành của anh bay khắp làng trên xóm dưới, đến tai vị phú hộ giàu có nhất vùng. Lập tức vị phú hộ nghĩ bụng:
- Chết tiệt cái đầu óc của ta đi! Chết tiệt cái đầu óc của mụ vợ ta. Tại sao nhà ta lại không nghĩ đến việc chúc mừng sinh nhật của đức vua trước cái thằng bần cố nông đó. Một trái bí đao mà đổi ngần ấy đồ đạc quý giá.
Và ông phú hộ bèn gọi bà vợ cùng đám con trai, con gái, cháu chắt đến. Hai vợ chồng ông cùng đám cháu chất đầy nhóc hai cỗ xe tứ mã. Đám thần dân này mang đến hoàng cung một số lượng phẩm vật kếch sù gồm bò bê, cừu, ngựa và không biết cơ man nào là sơn hào hải vị… cùng những tấm lòng thắc thỏm chờ mong của họ.
Một lần nữa đức vua lại cảm động và ân cần tiếp đón đám thần dân tốt bụng, hệt như việc đón tiếp chàng nông dân ngày hôm qua. Có điều nhà vua lấy làm khó nghĩ… Ngài không biết nên dùng phẩm vật gì để đáp lại tấm lòng tập trung của toàn thể gia đình ông phú hộ. “Bò, bê, cừu, ngựa… vàng, ngọc, lụa là thứ gì người ta cũng có. Phải ban cho họ một thứ gì quý giá và hiếm hoi nơi trần gian này.”
Đức vua bóp trán suy nghĩ, không bao lâu ngài đã nghĩ ra một món quà tuyệt hảo đó (các em phải nhớ rằng, đức vua là một vị anh quân tài trí mà lị). Ngài ghé tai nói nhỏ với quan tể tướng. Mười phút sau, đức vua trân trọng cầm chiếc bị rách (bên trong có chứa quả bí đầu mùa) và trước đám lương dân đang quỳ mọp bên bệ rồng đức vua long trọng đọc một bài đích cua ứng khẩu để tạm biệt và tống biệt. Bài văn rất dài đại ý nhà vua nhắc lại lai lịch của chiếc bị cùng trái bí, đức vua nhấn mạnh đến tấm lòng trung thực của anh nông dân đến hai lần… Vì theo ngài thì trên thế gian này không gì quý bằng trung thực. Cuối cùng đức vua trao tặng tấm lòng trung thực ấy cho toàn thể gia quyến ông phú hộ, được gói ghém trong cái bị rách.
Ông phú hộ kính cẩn nhận chiếc bị cùng trái bí đầu mùa, nâng ngang trán trong khi vợ con ông tung hôvạn tuế vang rền.
Em thân mến!
Câu chuyện xin được ngừng lại nơi đây vì “văn bất tận ngôn,” câu chuyện cổ của nhân dân Hungary trên làm tôi chợt nhớ đến hai câu thơ của một thiền sư Trung Hoa:
“Cố ý trồng hoa, hoa chẳng nở
Vô tình tiếp liễu, liễu xanh tươi.”
Xin nắn nót ghi vào đây thay cho lời kết luận vậy.
Dây Vạn Niên Thanh
Xưa, có một bác tiều phu vào rừng đốn củi theo con đường mòn thường nhật, bác bỗng ngửi thấy một mùi hương lạ tỏa ngát. Đi tìm xuất xứ của nó, bác nom thấy một trái đào chín mộng treo lơ lửng trong tầm tay. Vừa với tay định hái, bác xiết bao kinh ngạc khi thấy một thanh niên lạ mặt đưa tay cản:
- Này, chớ có đụng vào đấy!
Bác tiều lùi lại hỏi:
- Cậu là ai?
Chàng thanh niên dõng dạc bảo:
- Ta là thần trường sinh, cứ mỗi một trăm năm ta cùng trái đào này xuất hiện một lần. Ai ăn được đào trường sinh thì sống hoài không chết.
Bác tiều phu mừng rỡ quỳ mọp xuống, vái lấy vái để:
- Thật là nghìn năm một thuở, xin đức thần cho tôi được ăn trái đào này.
Thần trường sinh lắc đầu:
- Từ thuở xa xưa đến nay đã hơn 12 kẻ tục được nếm trái đào này, nhưng chưa có ai trong số đó cảm thấy hạnh phúc hơn, nếu không nói là ngược lại… vì thế, ta chỉ xuất hiện với phép màu này ở các thâm sơn cùng cốc.
Bác tiều cứ một mực nài nỉ. Cuối cùng thần trường sinh đành trao trái đào tiên cho bác với lời dặn dò:
- Cho đến khi nào ngươi cảm thấy cần gặp ta để chấm dứt phép lạ thì nên đến chốn này.
Và vị thần biến mất.
Từ đó, bác tiều phu sống hoài sống mãi, trong khi vợ con, cháu chắt, chít chút của bác lần lượt qua đời… đã hàng trăm, hàng nghìn lần bác nhìn mặt trời bình thản xuống lên, trăng khuyết rồi tròn, các triều đại thay vua đổi chúa, sự thăng trầm vinh nhục, tham lam, tráo trở cũng như những tai họa của kiếp người. Cho đến hôm bác đến nơi ước hẹn với thần trường sinh, chán nản thốt:
- Thưa, đã quá đủ cho con, đã quá dài đối với kiếp sống của một con người… Con xin trả lại ngài trái đào năm củ.
Thần trường sinh lạnh lùng trao cho bác tiều phu một con dao. Bác cung kính đón lấy và đâm thẳng vào tim.
Thần trường sinh cùng con dao vàng biến mất, bác tiều khép mắt ngủ giấc sau cùng như bao nhiêu đồng loại bác, nhưng giòng máu trường sinh từ cơ thể bác chảy ra ngấm vào lòng đất, một loại cây leo hút từ mãnh đất ấy liền đâm chồi thay lá và sống mãi cho đến ngày nay. Người ta gọi loài đây leo đó là dây vạn niên thanh. Khác hẳn với loài người, cây cỏ sống hoài vì chúng vô tình không có trái tim. Riêng nhân loại thì ai cũng ham sống sợ chết, nhưng trái tim nhỏ bé của họ không đủ sức chịu đựng những sự biến đổi vô thường của một kiếp người. Vì thế, khoảng thời gian ngắn ngủi chỉ tối đa 100 năm, đã vừa đủ cho họ… Cái chết đôi khi là một đặc ân, như lời hứa tái ngộ của thần trường sinh với bác tiều dạo nọ vậy.
Chiếc Giày Chờ Đợi
Chuyện xảy ra tại một chung cư.
Một cụ già mắc bệnh đau tim ở căn phòng dưới. Căn phòng trên đầu cụ thuộc quyền sở hữu của một thanh niên chưa quá 30 tuổi. Hôm nào đi làm về anh thanh niên cũng tháo giày ra và liệng xuống nền sàn rầm rầm, chịu hết nổi, bữa nọ cụ già tìm gặp anh, bảo:
- Này cậu em, qua có bệnh đau tim nặng, không chịu nổi những tiếng động mạnh bất ngờ, Vậy cậu thông cảm và giúp cho qua bằng cách mỗi lần cởi giày, cậu để nhẹ tay xuống sàn giùm nhé!
Chàng trai bối rối xin lỗi ông cụ và hứa sẽ thực hành lời yêu cầu.
Ngay hôm ấy, vẫn theo thói quen chàng trai nằm dài trên đi văng cởi giày và liệng xuống nền nhà. Vừa quăng chiếc giày thứ nhất xong, chàng ta chợt nhớ đến lời dặn của ông cụ, bèn ngồi bật dậy và đặc chiếc thứ hai xuống một cách nhẹ nhàng.
Ba mươi phút sau, thanh niên nghe tiếng gõ cửa phòng. Anh mở cửa và bắt gặp ông cụ đang ôm ngực, thở hào hển bảo
- Chú em! Chú làm phước liệng nốt chiếc giày thứ hai cho… qua không chịu nổi thời gian chờ đợi.
Em thân mến!
Thói thường, chúng ta hay đem những kinh nghiệm đã trải qua trong quá khứ để tiên đoán, đề phòng và chuẩn bị đối phó với các sự kiện tương lai. Và rất nhiều khi chúng ta lấy làm tự hào về những kinh nghiệm mình đã trải qua… Nhưng cũng có… nhiều lần, chúng ta bị lâm vào cảnh ngộ của ông cụ trên đây, ôm ngực thở hào hển để chờ đợi chiếc giày thứ hai rơi xuống sàn nhà. Có lẽ vì thế mà các thiền sưthường khuyên chúng ta: “Việc qua rồi chẳng nhớ, việc chưa đến chẳng lo, việc hiện tại đừng đem lòng vọng tưởng.” nghĩa là hãy giáp mặt với cuộc đời với một bản tâm trong sáng bình thường, bình thản đón nhận mọi việc xảy đến, không phê phán, dự đoán chăng?
Giá Trị Lời Nói
Ngày xửa ngày xưa, có một thiếu nữ con nhà dân giả, nhan sắc cũng mặn mà dễ coi, chỉ phiền một nỗi là có mắc phải bệnh nói suốt ngày, cha mẹ cô thường than van:
- Phải chi mà một lời nói của nó đáng giá một đồng xu thì còn đỡ khổ, đàng này…
Cô gái mỗi ngày một lớn, căn bệnh cũng lớn theo, cô cứ nói ra rả cả ngày, đến lúc đi ngủ cũng còn nói, ngôn ngữ cứ tuôn ra từ miệng cô như súng liên thanh.
Sức chịu đựng của lỗ tai con người có hạn. Bữa nọ cha mẹ cô đành đuổi cô ra khỏi nhà vì họ sắp phát cuồng lên cả. Cô gái buồn tủi vừa đi vừa khóc vừa nói cho đến một bờ biển thì dừng lại. Tiếng nói của cô ồn ào át cả tiếng sóng biển, bay đến tai của một thanh niên đang thả lưới ngoài khơi. Chàng ngư phủ bèn chèo thuyền vào và sửng sốt trước dung nhan khá thu hút của thiếu nữ.
Sau khi biết rõ xuất xứ cùng nguyên do lạc loài của cô gái, thanh niên thu hết can đảm ngỏ ý muốn cưới nàng ta làm vợ. Thiếu nữ bằng lòng không quên nhắc cho chàng rể biết là nàng có tật hay nói. Anh ngư phủ gật đầu lia lịa bảo:
- Càng hay! Tôi mồ côi cha mẹ, ở thui thủi một mình hơn 15 năm nay, chỉ nghe tiếng sóng bể rì rào chứ chưa được nghe tiếng thủ thỉ của con người bao giờ. Nàng tha hồ mà nói cho vui nhà vui cửa…
Thanh niên quỳ xuống hôn lên tay người đẹp và dắt nàng về túp lều tranh của mình.
Tuần trăng mật trôi qua. Chàng trai bắt đầu cảm thấy mệt mỏi vì cứ phải nghe tiếng nói liên hồi của cô vợ. Những ngày sóng yên bể lặng chàng dong buồm ra biển lưới cả ngày thì còn đỡ khổ, gặp khi biển động, phải ở nhà suốt ngày thì tình thế quả là vô phương cứu chữa.
Một hôm, chàng tình cờ cứu thoát nữ thần bể cả khi bà tuần du và mắc cạn trên bãi cát trong lốt một con cá nhỏ. Thần biển đền ơn chàng bằng một điều ước… Chàng ngư phủ mang điều ước ấy về nhà thay cho giỏ cá nặng như thường lệ.
Thấy chồng trở về tay không, cô vợ liền cất tiếng hỏi, câu hỏi này tiếp nói câu hỏi kia khiến anh chồng tối tăm cả mặt mũi. Không cách nào mở miệng trả lời được, anh chồng nổi cáu hét lớn:
- Phải chi mà mỗi lời nói của em mà rớt ra một đồng xu cho tôi nhờ…
Anh chồng vừa dứt lời thì… lẻng kẻng… lẻng kẻng… các đồng xu bắt đầu văng tung tóe từ khóe miệng vợ xuống nền nhà. Cô vợ kinh ngạc vừa nhặt tiền vừa nói nên chẳng bao lâu các đồng xu đã ngập đến mắt cá chân đôi vợ chồng trẻ. Tình thế bắt đầu nguy ngập khi chiếng chõng tre của đôi vợ chồng sụp đổ trước sức nặng của các đồng xu kẽm.
Tờ mờ sáng, chàng ngư phủ vội vã đi tìm thần bể, xin bà giúp anh giải quyết tình thế, anh van xin:
- Khổ thân con! Bây giờ ngoài tiếng nói liên tu bất tận của cô ả, con còn phải nghe thêm tiếng rơi lẻng kẻng nữa…
Thần bể hiền tử bảo:
- Vậy thì, kể từ bây giờ, cứ mỗi câu nói khoảng năm lời của vợ con mới rơi một đồng xu kẽm.
Hai hôm sau, chàng trai lại tất tả tìm thần bể than:
- Thưa, số đồng xu vẫn còn nhiều, con gặp phải nó trong bất cứ nơi nào: nồi cơm, trách cá, ấm nước, niêu tôm… Chỉ đến lúc vợ con ngủ rồi mà nó còn mớ khiến tiền rơi lộp cộp trên mặt con… Xin ngài giải quyết giùm con ạ!
Thần biển suy nghĩ giây lâu bảo:
- Hãy về bảo với vợ con rằng, nếu cô ta chịu nín nói suốt ngày thì câu nói đầu tiên của cô vào buổi tối sẽ làm rơi ra một đồng tiền bạc.
Ba hôm sau, anh chồng lại tìm đến thần bể thuật lại tự sự:
- Thưa… Cô vợ con đang lâm nguy… vì nín nói nên cô ta bị mắc cam tích, tay chân mình mẩy đều sưng phù… Bây giờ thì nom cô ả hệt như một con cá nóc… sắp vỡ bụng tới nơi… xin ngài giải quyết giùm.
Lần này sau 10 phút suy nghĩ, thần bể phán:
- Hãy về bảo với cô ả, cứ mỗi lời nói khôn ngoan là một đồng vàng.
Từ ngày đó, chàng ngư phủ không phải tìm thần biển nữa. Mỗi ngày chàng dong thuyền ra khơi đánh cá, cô vợ ở nhà làm bếp trồng rau và dăm bữa cầm một đồng tiền vàng ra chợ mua gạo. Cô nàng không còn nói nhiều nữa, vì những lời nói khôn ngoan thường là kết quả của một thời gian dài lặng thinh. Những đồng tiền vàng không nhiều và cũng nhờ vậy mà đôi vợ chồng trẻ sống bên nhau thật hạnh phúc. Câu nói cuối cùng của người đàn bà ấy dặn dò thân nhân khi đương sự từ giã cỏi đời là:
“Nói là bạc, nhưng im lặng là vàng… người ít nói không phải là người nói ít, mà chính là không nói những lời vô ích.”
Câu nói sau cùng vừa dứt thì ba chục đồng tiền vàng đã văng tung tóe… khắp nơi. Người đàn bà trút hơi thở cuối cùng. Đám tang của bà nghe nói là rất linh đình vì chi phí của nó là ba chục đồng vàng.
Chùm Nho Mơ Ước
Một con cáo đi ngang vườn nho của người. Thấy một chùm nho chín mọng, treo lơ lửng. Cáo thèm rỏ dãi, cố đứng trên hai chân sau, với hai chân trước để hái. Loay hoay hì hục mãi, cáo mệt bở hơi tai, thở hồng hộc mà vẫn chưa nếm được trái nào. Cuối cùng, cáo liếm mép bỏ đi. Cho đỡ tức, cáo ta tự an ủi: “Còn xanh lắm!”
Em thân mến!
Lép Tôn tôi đã kể lại câu chuyện ngụ ngôn trên trong quyển sách học vần của ông. Chuyện chấm dứtkhi con cáo bỏ đi, để lại lời bình phẩm “còn xanh lắm.”
Tác giả không nói gì thêm nhưng chúng ta có thể hiểu rằng, nếu với được chùm nho ngon lành đó, cáo ta sẽ không nói như vậy.
Trên thực tế, không có chú cáo nào thốt ra câu nói và có hành động như trên, tương tự như loài ngườiđa sự của chúng ta. Nếu chùm nho “ngũ dục” nằm trong tay ta thì hái được dễ dàng, giá mà ta không mệt nhoài, bở hơi tai vì nó… thì có lẽ ta sẽ không thèm thuồng bỏ đi, sau khi hạ một câu: “Độc lắm!” “Dở lắm!” “Ẹ lắm!”
Và có lẽ, lâu lâu chúng ta cũng nên cứu xét xem động cơ nào khiến chúng ta đòi “vạn duyên buông hết”, “nhất đao đại đoạn”, “cắt dứt duyên trần”, hoặc “ẩn tích mai đanh”… Nhất là, hãy xem mình có cái danh nào để “mai,” để chôn không đã nhé!
Làm sao để biết rằng chùm nho đó “còn xanh lắm,” “ghê lắm” thật sự, rằng ta hoàn toàn cóc cần, không màng đến nó? Dễ lắm, em ạ! Nếu đúng như vậy thì lòng ta sẽ hoàn toàn bình thản, an nhiên khi thấy có kẻ phỏng tay trên, chộp được nó đưa lên miệng. Bằng ngược lại, ta sẽ cảm thấy tức giận, bực bội, ganh tỵ… đầy bụng liền.
Em có thấy như thế không?
Ván Cờ Định Mệnh
Đaito là một thanh niên được sinh trưởng từ một gia đình vọng tộc giàu có. Quãng đời tráng thiếu của chàng trôi qua trong nhung lụa, khoa cử cùng các chén rượu nồng ở khắp trà đình tửu điếm. Chưa đến tuổi tứ tuần, Đaito đã cảm thấy dường như mình đã nếm khá nhiều mùi chung đỉnh, danh vọng cùng tất cả những trái ước của trần gian. Chàng đâm ra chán đời, sau một đêm trác táng miệt mài, Đaito rời bỏ kinh thành với hai bàn tay trắng.
Qua mấy tuần trăng trèo non lội suối, Đaito tìm đến xin học thiền tại một tu viện thời danh. Chàng tham gia nhiệt tình vào trò chơi nói, thức khuya dậy sớm, làm hầu hết những công tác cần thiết của một kẻ tầm đạo sơ cơ.
Năm năm trôi qua, chàng công tử lừng danh của kinh thành dạo nọ đã biến mất… Một hôm, soi mình bên suối, Đaito sững sờ nhìn khuôn mặt xanh xao của một thiền tăng lung linh qua làn nước. Hình bóng chàng y hệt như dáng dấp của các người bạn đồng đạo chung quanh: vầng trán cao và rộng, vài nét nhăn trầm tư cùng những phong thái đặc biệt chỉ có nơi hạng người lánh tục, mà những niềm sầu nỗi khổ của trần gian không làm xao gợn đôi mày yên tĩnh của họ.
Duy có một điều, Đaito chắc chắn rằng chàng hoàn toàn không giống họ, đôi mắt chàng vẫn còn lao xao những ước vọng mơ hồ, tiếng cười giọng nói hãy còn phảng phất những cuộc tìm kiếm mệt mỏi, vô vọng và xa xăm. Đaito chưa đạt được sự bình an, niềm hạnh phúc duy nhất mà các nhà tu được quyền thụ hưởng nơi cõi đời này. Một đêm trăng lạnh mờ sương, không chịu nổi những ray rứt mơ hồ đang nặng trĩu cõi lòng, Đaito tìm đến Hòa thượng đường đầu - thầy tế độ của chàng cũng là vị lãnh chúa không ngai vàng của vùng trời thoát tục này.
Hòa thượng lặng yên nghe Đaito kể lể, chàng mô tả tỉ mỉ các con đường mình đã đi qua và ngõ cụt trước mặt. Cuối cùng, chàng kết luận:
- Con không thể đi lại con đường cũ dù đó là con đường mơ ước của hầu hết nhân loại. Con cũng không thể bước vào con đường mới mà các bạn con đang bình thản dạo chơi trên đó, con đang đứng trên một bờ vực… Lòng không hề chờ mong, ước muốn hoàn toàn lạnh nguội… Sự nguội lạnh kinh tởm giống như những năm xưa khi chứng kiến cảnh hoa héo, rượu nhạt trà ôi sau những đêm trác táng, con thấy mình không còn tha thiết gì đến ngũ dục trần gian lẫn niết bàn xuất thế.
Thấy chàng im lặng khá lâu, Hòa thượng hỏi:
- Thế con muốn gì?
Đaito nhẹ giọng, bình thản:
- Con muốn chết!
Sư phụ chàng nhướng mày, ông ngã lưng xuống giường, ra dấu tạm biệt và bảo:
- Sáng mai con đến đây… ta sẽ giúp cho con đi vào cõi chết. Đaito vái chào ông lui về. Vừa ra khỏi phòng chàng nghe tiếng ông ngáy như sấm. Đêm đầu tiên trong tu viện, Đaito đặt lưng xuống chõng và ngủ liền một giấc hoàn toàn không mộng mị.
Đaito giật mình thức giấc khi ánh nắng ban mai tò mò xuyên qua cửa sổ. Các bạn chàng đã lên núi hái trà. Cử chỉ tế nhị của các bạn đồng liêu làm chàng hơi xúc động. Những người bạn nhỏ tuổi biết Đaito đang lâm vào một cơn biến động nên họ đã nhẹ nhàng thức giấc, ngồi tĩnh tọa, dùng cơm sáng rồi đi chấp tác, không quên khép nhẹ cánh cửa sổ cho chàng được yên giấc.
Đaito tìm đến phương trượng, sư phụ chàng đang ngồi đợi dưới một cội tùng già, bên một bàn cờ là thanh kiếm để trong chiếc bọc làm bằng da cừu. Hòa thượng chỉ tay bảo Đaito ngồi xuống một phiến đá bên cạnh.
Bằng một cử chỉ lanh lẹ và nhẹ nhàng, ông rút thanh gươm ra khỏi vỏ. Đaito rùng mình, ánh thép sáng và lạnh như một làn gió mùa đông. Hòa thượng cất tiếng nói giọng chậm rãi, uy nghiêm:
- Lúc ta còn ở kinh thành, hoàng thượng có ban cho ta thanh kiếm này. Uy quyền của nó là… uy quyềncủa người nhận nó là “tiền trảm hậu tấu…”
Ông tra gươm vào vỏ, bảo Đaito:
- Ta nghe phong phanh rằng trước khi vào tu viện con là một tay cờ vô địch?
Đaito chắp tay cúi đầu. Hòa thượng tiếp:
- Hãy ngồi xuống và đánh một ván cờ bằng sinh mạng của chính con…
Đaito ngơ ngác đưa mắt nhìn quanh… đến giờ phút này chàng mới khám phá ra sự hiện diện của nhân vật thứ ba, y đã đến lặng lẽ như một tia nắng. Gương mặt trong sáng an tĩnh của đối thủ làm Đaito khó chịu.
Chàng ngồi xuống tảng đá phủ rêu, vừa bày cờ vừa quan sát người mới đến.
Đó là một thanh niên chưa đến 30 tuổi, gương mặt khá thanh tú. Bộ y phục nhà tu đơn sơ làm tăng thêm vẻ thanh thoát của một gương mặt có nhiều dáng dấp trẻ thơ…
Hai đối thủ chắp tay vái chào nhau và vào cuộc. Đaito nhận ra đối thủ không phải là ai đâu xa lạ mà chính là vị sư huynh lừng danh của mình, thường được các thiền tăng trong tu viện nhắc đến bằng một giọng kính phục. Vị tu sĩ trẻ tuổi này là người môn đệ ưng ý nhất của Hòa thượng. Anh ta được đặc cách hạ sơn đi bố giáo khắp nơi, thỉnh thoảng mới về hầu thăm sư phụ, đến âm thầm và đi lặng lẽ như nhau… Suốt năm năm nội trú, Đaito chỉ thấy tà áo của vị thiền sư này thấp thoáng dưới ánh trăng có đôi ba lần. Dưới ánh nắng mai nom ông ta có vẻ trẻ trung và tầm thường hơn uy danh của ông.
Đaito di động quân cờ một cách chậm rãi, đối thủ của chàng có một nước cờ khá điêu luyện. Đôi bàn tay tài hoa của anh ta trông có vẻ giống họa sĩ hơn là người chơi cờ. Nhìn đôi tay nhẹ nhàng của chàng trai trẻ tuổi cùng những nước cờ giản dị Đaito sực nhớ đến quãng đời niên thiếu của mình, khi mắt hãy còn trong ngồi sôi kinh nấu sử bên đèn, trong khi hoa trạng nguyên nở đỏ ngoài sân. Đaito lại thấy bồi hồi cảm xúc… ngượng ngùng ném phong thơ tỏ tình đầu tiên vào vườn hoa của nàng thiếu nữ con quan tổng đốc… Và cứ thế, từng quãng đời trôi qua lần lượt sống dậy trên ván cờ định mệnh. Cho đếnlúc giật mình sực tỉnh, Đaito bắt gặp mình đang ở trong một tình thế hết sức nguy ngập. Chàng cảm thấy luồng nhãn quan lạnh lùng của Hòa thượng đang di động trên cổ mình. Có lẽ ông ta chọn chỗ để đưa thanh gươm đi cho ngọt.
Đaito đưa mắt nhìn đối thủ, gương mặt y vẫn bình thản đến độ dễ ghét, viền môi thanh tú của y còn đọng mơ hồ một nụ cười… Đaito cảm thấy giận dữ, mồ hôi đẫm lưng, nhưng chàng biết mặt mình đang đỏ bừng. Cơn giận bừng sôi khiến chàng đâm ra khao khát được thấy chiếc đầu lâu của đối thủ lăn long lóc trên mặt đất đầy rêu.
Thời gian trôi qua… Mặt trời đã chếch về phía tây… Ngoại trừ đôi bàn tay di động, cả ba người đều im lặng như tượng đá… Đaito sững sờ khi khám phá ra chàng chưa muốn chết, mà ngược lại chàng còn tha thiết sống hơn bất cứ con người nào trên trần gian này. Bỗng dưng chàng cảm nghiệm được tất cả những vẻ đẹp mê hồn kỳ ảo của cuộc sống. Thật là lạ lùng khi dưới ánh mặt trời, mỗi đóa hoa đều có một màu sắc đường nét riêng, cả đến những loại hoa bờ cỏ bụi, thạch thảo, dây leo đều góp mặt bằng sự sáng tạo độc đáo, cá biệt như đã tuân theo một sự sắp xếp mầu nhiệm…
Làm thế nào có thể chán ghét cái trần gian thơ mộng này? Đaito có cảm tưởng như mình là một thiếu niên mới lớn, cùng chơi đùa nghịch ngợm mới các cô bạn gái đồng trang lứa… thì bỗng nhiên thần ái tình hiện đến. Các cô gái đều rực rỡ huy hoàng với những hương sắc thầm kín cá biệt khiến chàng ngây ngất… Chàng đã sống trên cõi đời này hơn 40 năm, luôn luôn gấu ó, tranh giành, càu nhàu một cách xuẩn ngốc với ngoại cảnh. Mãi đến hôm nay trong ván cờ định mệnh, khi tánh mạng chàng như sợ chỉ mành thì Đaito lại cảm thấy choáng voáng, ngất ngây với cái trần gian kỳ ảo mà mới đêm qua chàng hãy còn ghét bỏ. Đaito biết rõ chàng phải làm gì… Chàng phải sống với bất cứ giá nào… Khi ván cờ kết thúc phải có một chiếc đầu rơi xuống, chiếc đầu ấy nhất định không phải là của Đaito.
Chàng kỳ thủ lừng danh của kinh thành đã hồi sinh. Bàn tay của Đaito di động một cách điêu luyện và tự tin. Nước cờ của chàng trẻ tuổi bắt đầu rối loạn. Đaito đưa mắt nhìn đối phương, đôi mắt mày dài lưỡi kiếm của y vẫn bình thản, hai cánh mũi bất động một cách lạnh lùng chứng tỏ hơi thở y vẫn đều đặn… Đôi hàng mi rậm của y rủ xuống che khuất nữa cặp mắt trong xanh.
Lòng Đaito chùng lại… Trong quãng đường cũ chàng đã bỏ rơi hàng chục đứa trẻ thơ. Những đứa trẻ gọi chàng bằng cha nếu còn sống sót có lẽ đã bằng tuổi vị thiền tăng tài hoa này. Đaito bỗng co rúm người lại vì xấu hổ. Bên cạnh chàng tuổi trẻ sáng ngời như một viên ngọc, Đaito thấy mình chỉ là con sâu rọm gớm ghiếc. Có nên đem cái mạng sống không đáng giá đồng xu của mình để đánh đổi một ngọn hải đăng của nhân loại hay không?
Đaito thở dài… Chàng đưa mắt nhìn ánh hoàng hôn đang hối hả trên đọt tùng bên kia thung lũng, gởi lại trần gian lời chúc tốt đẹp nhất qua một hơi thở nồng nàn, rồi đưa tay mở một sinh lộ cho đối thủ.
Ván cờ đã đi đến cuối điểm. Đaito khép mắt lại nhưng vẫn nghe tiếng chân sư phụ mình đi đến gần, lưỡi thép sáng và lạnh như sương chiều. Chàng cảm thấy làn gió mát rười rượi khi vị sư hươi lưỡi gươm lên. Lòng chàng vẫn bình thản… “Phụp!” Đaito mở mắt ra, chàng bỡ ngỡ khi thấy mình chưa chết… Trước mặt chàng, bàn cờ bị chẻ đôi, vết chém ngọt và sắc. Tiếng nói của Hòa thượng trầm ấm, uy nghiêm trong khi làn sương mù bắt đầu dày đục:
- Trong ván cờ định mệnh, Đaito đã đi lại những nẻo đường xưa cũ của mình. Sau đó là sự bực tứcganh tỵ, thù hằn… Nhưng cuối cùng, khi nắng chiều sắp tắt, hoa từ bi đã nở trong lòng con. Đóa hoa ấy đã mọc lên từ mãnh đất ưu phiền tuyệt vọng, và chắc chắn sẽ kết quả vào một ngày không xa lắm. Mỗi vị Phật đều được bắt đầu như thế đó Đaito ạ!
Đaito ở lại tu viện và chẳng bao lâu, chàng đạt được những cái gì mà chàng đã bỏ quên.
Riêng vị thiền tăng trẻ tuổi thì Đaito vẫn chỉ thấy được tà áo rộng bạc màu của ông ta, thấp thoáng trong các cội tùng xanh lá, trong những đêm trăng lạnh mờ sương vì bao giờ con người ấy cũng đến âm thầm và đi lặng lẽ…
Ba Tội Đáng Chết
Tề Vương có con ngựa quý chẳng may bị bệnh chết. Vua tức giận, truyền lệnh phanh thây quan giữ ngựa. Quan tướng quốc là Ấn Tử thấy vậy tâu:
- Muôn tâu, vua Nghiêu vua Thuấn lúc xử tội người phanh thây, chẳng rõ các ngài phanh từ đâu trước?
Tề Vương ngơ ngác, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi truyền giam tội phạm vào ngục.
Ấn Tử lại thưa:
- Tên tội đồ này chưa rõ tội trạng của nó, xin bệ hạ cho phép thần kể tội để hắn khỏi kêu oan.
Vua đáp:
- Phải
Ấn Tử bảo:
- Nhà ngươi có ba tội đáng chết:
Đức vua sai nuôi ngựa để ngựa chết
Đó là một loài ngựa rất quý.
Làm cho nhà vua mang tiếng là vì một con ngựa mà giết chết một mạng người.
Tội trạng nhà ngươi như thế thật là đáng xử trảm. Chỉ hiềm một nỗi là người chết đã yên thân mà để lại cho thiên hạ vì lỗi lầm của nhà ngươi, khinh oán đức vua…
Tề Vương nghe đến đây ngậm ngùi than:
- Thôi, tha cho nó! Kẻo ta lại mang tiếng bất nhơn…
Em thân mến!
Krishnamurti có nói: “Trong mối tương giao với tha nhân, ta chỉ giữ lại sự tương giao nào có lợi cho ta mà thôi.” Câu nói này nghe nói trái tai mà lại đúng biết mấy.
Vua Tề định phanh thây quan giữ ngựa vì ông ta không làm như ý, thiệt hại cho nhà vua. Đến khi nghe lời Ấn Tử nói, giết tên giữ ngựa lại làm thiệt cho uy danh của mình, vua mới chịu tha. Lời can của Ấn Tử thật là khôn khéo, nhưng biết kềm chế được cái khí giận đang sôi sục, nuốt hờn mà tha thứ như Tề Vương không phải là một chuyện dễ làm. Vì thế, đây là một câu chuyện thuộc thế gian giới nhưng cũng đáng cho hàng nạp tử chúng ta suy gẫm vậy.
Hoa Vương
Ngày xửa ngày xưa, có vị minh quân cai trị một vương quốc thanh bình trù phú. Mọi việc đều xuôi chèo mát mái, ngoại trừ một điều bất như ý là dù tuổi đã khá cao, nhà vua hiền đức của chúng ta vẫn chưa có được một hoàng nam nối dõi.
Một bữa tốt trời, đức vua cho yết bảng, truyền lệnh với các đồng tử, tuổi từ lên 7 đến 12 vào sân rồng cho ngài tuyển chọn người kế nghiệp. Các thần dân của đức vua trong lứa tuổi ấn định lần lượt kéo nhau về kinh đăng ký… Bất kể gia tộc, giàu nghèo, sang hèn, mỗi cậu bé đều được nhận một hạt giốngtí tẹo. Các thí sinh phải đem hạt giống về, tự tay gieo trồng, chăm bón… Đến bao giờ hạt giống nảy mầm, nứt lộc đâm chồi, ra nụ, kết hoa… thì sẽ mang đến hoàng cung dự thi. Ngày khảo thí được ấn định vào đêm trăng rằm tháng tám. Chậu hoa nào được đức vua và hoàng hậu chấm giải nhất thì người gieo trồng đó được vào cung làm hoàng tử, người sẽ kế vị đức vua lên ngôi cửu ngũ sau này.
Cái ngày chờ đợi đó đã đến. Vườn ngự uyển chất đầy các lẳng hoa không chê vào đâu được… nhưng đức vua và hoàng hậu xem chừng vẫn chưa hài lòng, vừa mắt.
Sau cùng, một chú bé khoảng lên tám, áo quần rách rưới nhưng mặt mũi dễ thương, xin được vào gặp đức vua của chú. Mọi người cười ồ khi thấy chú bé khư khư ôm cái chậu đất nung chứa đầy phân và đất mịn. Vị thần dân tí hon này quỳ trước bệ rồng, nước mắt chảy quanh, sụt sịt nói:
- Muôn tâu! Con đã gắng hết sức mình. Con đã chọn chiếc chậu lành lặn nhất, đặt vào đó thứ đất mịn nhất, trộn vào chậu thứ phân hoai nhất… rồi mới đặt hạt giống của đức vua ban cho con vào đó. Con đã phơi sương, ủ nắng và tưới nước cho nó. Vậy mà, nó không chịu nứt cái mầm nào cả…
Nghe đến đây, nhà vua không giấu được nỗi xúc động, Ngài bước xuống ngai, ôm chầm lấy chú bé dân giả, reo lên:
- Ôi, con chính là vị hoàng tử mà ta và toàn thể thần dân chờ mong…
Mọi người đều kinh ngạc lẫn bất bình. Đức vua vuốt râu, mỉm cười giải thích:
- Tất cả hạt giống trước khi trao cho thí sinh đều đã được hấp chín nên nó chỉ có thể nở một đóa hoa vô hình nhưng trung thực mà thôi!
Đưa tay chỉ chiếc chậu đầy đất bẩn của chú bé, nhà vua tiếp:
- Đóa hoa ấy đã đâm chồi nẩy lộc trong có mỗi một chiếc chậu này mà thôi. Con người đã gieo trồng được loài hoa ấy nhất định sẽ là vị minh quân mà đất nước chúng ta chờ đợi.
Đức vua đã không lầm trong sự lựa chọn ấy.
Người Đánh Xe
Người đánh xe cho quan tướng quốc Án Anh có một người vợ trẻ, đã xinh người lại đẹp nết.
Bữa nọ, người đánh xe về nhà gặp cô vợ đang thu xếp tư trang cho vào tay nải. Ngạc nhiên, bác vặn hỏi, cô vợ buồn rầu đáp:
- Tôi chuẩn bị về nhà cha mẹ tôi…
- Sao thế?
- Tôi xấu hổ quá đi mất!
Bác đánh xe cuống quít căn vặn mãi, cô vợ mới đáp:
- Khi sáng có việc ra chợ, tôi nom thấy mình ngồi đánh xe cho quan tướng quốc. Mặt mũi mình vênh váo, quát mắng ỏm tỏi, vung voi vi vút ra bộ dưới gầm trời này không ai bằng mình…
- Thế, mình tưởng tôi không có chức vị gì đấy phỏng?
- Vâng, tôi biết. Chức vị của mình là bác tài đánh xe cho quan tướng quốc. Tôi nom thấy quan tướng quốc ngồi trong xe với một dáng vẻ nhũn nhặn, khiêm tốn… nên tôi xấu hổ thay cho mình…
Bác đánh xe cũng là một người tốt nên bác nhận lỗi hứa sẽ sửa chữa. Hôm sau, thái độ mềm mỏng của bác ta làm cho tể tướng ngạc nhiên, ông dọ hỏi, biết rõ nguyên cớ và cho trọng thưởng vợ người đánh xe.
Em thân mến!
Câu chuyện ngắn trên đây có ba hình ảnh thật đẹp. Đó là gương mặt khiêm tốn và nhân hậu của quan tướng quốc, sự khuyên can tế nhị và sáng suốt của người vợ hiền cùng sự sửa sai hiếm có của bác đánh xe. Có lẽ nhờ thế mà câu chuyện được ghi vào sử sách và còn truyền tụng cho đến ngày nay.
Trông người lại gẫm đến ta, tôi và em đôi khi cũng hành động trơ trẽn như bác đánh xe nọ. Cạo tóc, khoác y vàng… chúng ta tự xưng là Phật tử… rồi cũng vênh váo, ngạo mạn, coi mình là cái rún của vũ trụ… là một nhân vật quan trọng nhất thế giới, trong khi đức đạo sư, người được nhân loại kính ngưỡng lại là người từ thuở lâu xa đã tu hành Thường Bất Khinh Bồ Tát…
Em có thấy như thế không?
Công Chúa Xử Kiện
Thuở xưa, có ba anh em trai cùng thừa hưởng gia sản của cha mẹ họ để lại. Vốn tin cậy và thương yêunhau, họ không phân chia tài sản mà cùng chung hưởng…
Được ít lâu người anh cả chợt khám phá ra rằng viên ngọc quý, gia tài chung của ba người bỗng nhiên biến mất. Ba anh em đồng ghi nhận rằng, ngoài họ ra, không ai có thể đánh cắp viên ngọc và ai cũng lắc đầu lên án thủ phạm cả. Nội vụ được đưa lên huyện tỉnh, rồi triều đình… mà vẫn chưa tìm ra manh mối.
Quốc vương của họ có một nàng công chúa trẻ tuổi, rất mực thông minh. Biết được sự bế tắc của vụ án, công chúa xin phép cha cho nàng được làm quan tòa xử kiện. Đức vua bằng lòng, công chúa bèn mặc áo thẩm phán, ngồi ghế quan chánh thẩm và xét khẩu cung ba người tình nghi. Họ đều nhất trírằng một trong ba anh em, phải có một kẻ đánh cắp viên ngọc. Công chúa bèn kể cho họ và đình thần nghe một câu chuyện cổ tích. Chuyện rằng:
“Ngày xửa ngày xưa, có một công chúa nhỏ. Mỗi ngày, bác giữ vườn đều tặng cô một đóa hoa hồng đỏ thật xinh xắn. Công chúa thường nhận đóa hoa với một nụ cười và câu nói đã thành thông lệ: “Ngày nào ta về nhà chồng ta sẽ đến nhà thăm bác với một đóa hoa hồng bằng vàng.”
Bác làm vườn chỉ mỉm cười, vái chào công chúa rồi ra về. Nét mặt và nụ cười của bác khiến công chúađoán rằng bác không tin mình nói thật. Vì thế công chúa giận dỗi bảo:
- Rồi bác xem, ta sẽ đến ngay đêm tân hôn và chỉ đến một mình.
Ngày tháng dần qua, đã đến ngày công chúa về nhà chồng. Trong đêm tân hôn, công chúa thủ thỉ kể lại lời hứa năm xưa với vị phò mã và xin phép chàng cho mình giữ tròn lời hứa. Vị tân lang bằng lòng… Công chúa bèn lẻn ra vườn ngự uyển một mình trong y phục cô dâu và một đóa hồng vàng trên tay.
Trên đường đi công chúa gặp một tên cướp, hắn chận đường đòi giết nàng và cướp nữ trang.
Công chúa kể lại câu chuyện, van xin hắn cho phép nàng làm tròn lời hứa rồi bận về sẽ hành động tùy thích. Tên cướp bằng lòng, công chúa lại tiếp tục lên đường.
Được một đoạn, nàng gặp một con cọp đói, cọp đòi ăn thịt công chúa… Nhưng rồi cũng giống như tên cướp, con cọp gia hạn cho công chúa được sống đến lượt về.
Công chúa đến nhà bác giữ vườn, bác ta nhận đóa hồng vàng mà nước mắt rưng rưng vì xúc động. Bác tình nguyện đưa công chúa về hoàng cung với những đóa hồng đẹp nhất trong vườn. Thấy bóng dáng vạm vỡ của bác, con cọp cùng tên cướp đồng trốn mất.”
Kể xong câu chuyện, công chúa bèn hỏi ý kiến ba anh em về các nhân vật trong đó, ai là người có tâm hồn bao dung, rộng lượng nhất.
Người anh cả đáp:
- Tâu công nương, đó là vị phò mã… Một tâm hồn nhỏ nhoi không thể nào cho phép vợ mình mới cưới đi như thế được…
Người thứ hai bảo:
- Đó là con cọp, nó đã chiến thắng cái đói.
Người em út:
- Đó là tên cướp, hắn đã chiến thắng lòng tham.
Công chúa bèn hỏi lại người anh cả:
- Người có vợ rồi chứ?
- Thưa đã có.
- Thế còn các em ngươi?
- Thưa, chưa ạ!
Công chúa hỏi người thứ hai:
- Có phải bình thường, ngươi là một kẻ phàm ăn?
Người anh cúi đầu, hai người kia xác nhận là đúng. Công chúa bèn kết luận:
- Người anh cả đã ca ngợi phò mã vì anh ta đứng cương vị một người chồng, người thứ hai ca ngợi con cọp vì anh ta là kẻ phàm ăn, người thứ ba ca ngợi tên cướp… vì anh ta là kẻ trộm ngọc… Thông thường, ta hay ái mộ ca ngợi kẻ nào đồng khí với mình… Có phải thế không nào?
Người em út đành thú nhận rằng anh đã lấy viên ngọc. Mọi người vỗ tay vang rền để ca ngợi nàng công chúa xử kiện.
Em thân mến!
Vậy thì… hóa ra khi chúng ta ái mộ, ca tụng thần tượng… một nhân vật nào đó, không phải vì những đức tánh cao thượng của họ, mà chỉ vì họ đã có những cái… tật giống hệt ta. Chuyện khó nghe và khó tin, nhưng có thật, phải không nào?